Hindu’ganga là 1 từ thuộc hệ Ngôn ngữ Ấn Âu gồm 2 thành tố. Tiền Hindu tiếng Ấn, hậu ganga tiếng Anh. Gan’ga. Gan gốc từ của gander con ngỗng đực tiếng Anh, gans tiếng Đức. Để không nhầm với duck con vịt(1) ngụp lặn tác giả Hindu cho thêm ga, ganga. Tiếng Anh ga là 1 thứ Kim loại. Hành Kim Ngũ hành sinh thành tại Tây, ganga là con ngỗng Kim Tây.
Tiếng Phạn có âm viết được thành chữ nhưVăn. Nhưng rất nhiều âm dùng để nghe nói. Hin’du gồm 2 âm Hin và du. Hin chúng tôi dịch âm là hạn, đại hạn. Ấn độ nắng nhiều nên Hin hạn. Nắng tức Hỏa, Hỏa nhẹ ở trên(Thủy nặng ở dưới). Hỏa tức Khí, Khí nhẹ ở trên(khí nặng ở dưới). Nắng nóng đi với táo khô, khô ở trên(ướt ở dưới)…Một xứ sở ở trên cao nắng lửa táo Khí(2) như vậy nên là hạnHin, Hin’du.
Nghe nói Hán Vũ Đế(3) người Tàu có cái thú chơi đu treo. Chúng tôi xin mượn 1 chữ trong tên thường gọi vị Đế này để bàn tiếp 2 chữ “sông Hà” Kinh dịch.
Ấn độ phương cao gần mặt trời nên Hin hạn. Chữ Thiên nghìn treo dưới chữ nhật, Mặt trời. Người Trung Hoa nói họ là người Hán. Bạn đọc nhìn lại chữsườn núi có thể làm nhà ở được. Hán này gồm chữ nhất, khởi ở trên và chữ phiệt phây tượng cho 1 nửa trái Đông. Nhà ở tức người sinh sống. Có 1 giống sau này gọi Hán từ bên kia men theo Hymalaya đến lập sinh ở cao nguyên Tây tạng cùng tiếng Phạn tối cổ.
Chủng người nào cũng đều có tiếng nói(Ngôn) và chữ viết(Ngữ) riêng. Nếu không, họ là kẻ từ nơi khác đến. Hán tự dựa vào âm, dựng lại chữ từ tiếng Phạn Ấn độ. Tiếng Trung ngày nay là thể giản tiện từ chữ Hán. “Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Mất chữ viết còn tiếng nói. Người Trung Hoa không có ngôn ngữ riêng. Phải chăng tổ tiên của họ là Indo Ấn Độ rồi Indi ấn hành mà thành cái tên như nửa Ấn nửa Âu Indo China?
Chú thích:
(1)“Tả dực hữu dực” là 2 cánh chim trái, phải. Đều ở bộ điểu, vịt biết ngụp lặn thuộc Âm. Vụ Tiên phi tần của Để Minh hồi 1 Lĩnh Nam chích quái làcon vịt trời bể Nam Đông thổ Tả dực.
(2)Táolà 1 trong 6 khí(phong, hàn, thử, thấp, táo, nhiệt) lưu hành trong năm. Khí táo ứng mùa thu bên phải Tây gọi là dương minh táo Kim(khí phong ứng mùa xuân bên trái Đông gọi là quyết âm phong Mộc). Hoàng đế nội kinh giải thích phổi Ngũ tạng của con người như sau: “Tây phương sinh táo, táo sinh Kim, Kim sinh tân, tân sinh phế”. Nghĩa là phương Tây sinh khí khô, khí khô sinh Kim, Kim sinh vị cay(tân là cay), vị cay sinh phổi.
(3)Tức Hán Cao tổ diệt nhà Tần(còn gọi là Tiền Hán hay Tây Hán). Người đời sau tôn ông là Hán Vũ Đế.