Thơ Văn Phú Lục của ta phàm thể 4 chữ thì 2 chữ “tỏ”, 2 chữ còn lại “mờ”. Lĩnh Nam chích quái thì Lĩnh Nam “tỏ”, chích quái “mờ”. Lại trong 2 chữ “mờ” thì quái là “tỏ”, chữ chích kia phải để cho người đọc suy ngẫm. Mờ tỏ là 2 mặt đối lập mới thành công dụng Văn. “Ý tại ngôn ngoại” là thế. Chúng tôi lấy ví dụ: Trước cổng đền Hùng Vương treo một bức hoành đề 4 chữ. Nếu nhìn mặt chữ mà dịch ngay: Núi cao, cảnh đẹp cứ thế mà đi. Nếu dịch vậy chỉ được 1 nửa câu Phú, mà vì chỉ được một nửa nên văn chẳng có ý tứ gì cả. Cao sơn là núi cao rồi. Chữlà cảnh vật, Không phải cảnh Trời.Chúng tôi dịch: Cao Sơn cảnh hạng.
Ở chuyện Thúc Hốt Hỗn Độn chúng tôi đã nói về con số 9, 9 khiếu. Bạn đọc xem hình 4A. Nguyên số 9 trong Hà đồ là số thành của hành Kim phương Tây. Chúng tôi tóm lược 10 con số Hà đồ.
- Thuỷ sinh đầu tiên ở Bắc tượng là số 1, số thành là 6.
- Hoả sinh ở Nam tượng là số 2, số thành là 7.
- Mộc sinh ở Đông tượng là số 3, số thành là 8.
- Kim sinh ở Tây tượng là số 4, số thành là 9.
- Thổ sinh ở Trung ương tượng là số 5, số thành là 10.
Bạn đọc xem hình 5A, vận hành của Hà đồ. Hà đồ khởi từ Bắc sang Đông vì Thuỷ sinh Mộc, Đông sinh Xuân. Tiếp từ Đông sang Nam vì Mộc sinh Hỏa, Xuân sinh Hạ. Từ Nam vào giữa Trung ương vì Hoả sinh Thổ, Hạ sinh Trưởng Hạ. Giữa Trung ương sang Tây vì Thổ sinh Kim, Trưởng Hạ sinh Thu. Từ Tây lại trở về Bắc vì Kim sinh Thuỷ, Thu sinh Đông.
Hà đồ là vòng quay 1 năm. Ngoài 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, 1 năm có thêm 1 mùa nữa gọi là mùa Trưởng Hạ. Trưởng Hạ(thử) tháng 6 âm lịch, ứng phương Tây Nam, quẻ Khôn Hậu Thiên bát quái, chi Mùi trong 12 địa chi.