Archive Tháng Tám 2020

Đổng Thiên Vương trang 55

Lửa khói chiến tranh đã lờ mờ bên kia bờ sông Ni’n nhưng người Ai cập cứ “bình chân” (1) như không có chuyện gì xảy ra. Phút mặc niệm ngoài chương trình của Hội thảo vẫn tiếp tục. Mặc cái nắng kinh người xứ Bể cát, cử toạ ai nấy mặt đỏ bầm, đầu cúi gằm nom họ như Ma binh trước trận bàn cỗ.
– Thưa chủ toạ _ Có tiếng gọi rất to của 1 cử toạ.
– Suỵt _ ông chủ toạ giật mình.
– Bây giờ là mấy giờ _ Vẫn cử toạ kia.
– Suỵt!
– Thưa ngài chủ toạ Poebens! Nhiệt độ hôm nay bao nhiêu?
– Suỵt, auch!
– Cha Portulak này gai góc như Sam! (2)
Lặng im đến 9 giọt đồng hồ nước, tiếng “thì thầm to nhỏ” của 2 cử toạ nào đó trở lại.
– Có ma không hở ông?
– Có chứ! Nhưng ngài hỏi để làm gì?
– Để… Eo ôi, tôi sợ… Tôi sợ nó ám!
– Ma nào mà ám _ Người kia chỉ vào bộ xương người đàn bà Khổng lộ trong 1 bức hoạ Nhật bản _ Nó đây phải không? Ông chưa dứt lời thì người này đã chồm lên ôm chặt lấy eo lưng 1 cử toạ đứng cạnh, thái độ hốt hoảng:
– Eo ôi, Nó ám tôi và cả ông nữa đấy!
– Nó ám tôi? Bà ám tôi thì có. Eo với chả Lạc! (3) Ma, Mamá là người mẹ cớ sao lại ám các con?

Chú thích:
(1) Từ thành ngữ “bình chân như Vãi”. Bình chân là ngồi xếp bằng như các bà Vãi nhà Phật. Bạn đọc xem 2 bức họa Ấn độ. Ảnh 1: Nam mô di đà Phật tức Quán âm Bồ Tát Diệu thiện tức Phật bà, Phật Ngọc, Kim thần (vàng thần thứ). Ảnh 2 _ Yogi’n tức Yoga Dugià.
Tư thế con người: Nằm thuộc Âm, đứng thuộc Dương, ngồi thuộc Âm dương quân bình. Cả 2 nhân vật trong 2 bức họa đều ở tư thế Âm dương quân bình. Ngồi xếp bìnhbằng, thân bất động, tư tưởng tập trung cho 1 vấn đề nào đó gọi là bình chân, “bình chân như Vãi”.
(2) Bạn đọc xem Asi’n trong 2 bức họa Hy lạp. Ảnh 3: Thoạt nhìn thì hình nhân kia là trai nhưng gương mặt, đầu tóc, bộ phận sinh dục lại “nửa nọ nửa kia”. Nhân vật Asi’n trong “Con ngựa Thành Drei” hay “Gót chân Asi’n” không rõ giới tính. Ảnh 4: Cũng Asi’n nhưng “môi đỏ má hồng”, “thắt đáy lưng ong”… Nhân vật này là gái. Nàng đội cái mũ bằng con Sam Portulack với cái đuôi thõng xuống phương Đông(tục “tóc tết đuôi Sam” và cái đuôi vô hình đảo Bạch long vĩ của người phương Đông từ tính triết học này). Asi’n và cha Sam buộc chặt tay chân với nhau bằng dải lụa trắng. Cả 2 ngồi xe, chiếc “xe hoa” 3 bánh (số 3) cách điệu thành 3 bông hoa (số 3)… Asi’n, chúng tôi dịch: Asiatisch Châu Á, vùng đất thứ Á hậu; yếu, là cái “gót chân” của Vũ trụ.
(3) Lạcsông Lạc, vùng đất của Lạc. Như Lạc thú(yêu, vui thích), Lạc Nhạc(Âm nhạc), Lạc bác: màu sắc loang lổ của con Ngưu (Họa); Lạc thúcđậu khấu – hạt lạc…

Đổng Thiên Vương trang 54

-Đáp ý Ngài: Tháng 12 Sửu trạp trạp “ve vẩy tai trâu” cũng đi đúng ¼ vòng từ Đông Bắc xuống Đông Nam làm nước Lỗ, nước Trâu China! Hình 10.

-Đối ý Ngài: Cái lỗ mặn, câm đặc, đứng riêng 1 hình như con trâu đực cũng đi đúng ¼ vòng từ Tây Nam lên Tây Bắc làm nước Lỗ, Lỗ Đặc La! Hình 10.
-Tôi diễn tiếp: quẻ Kiền Trời sau Ai cập cũng từ Tây Nam lên Tây Bắc làm quẻ Kiền Trời Hậu thiên Bát quái! Hình 10.
-Tôi cũng diễn: LãoLiêu 1 giống rợ đuôi dài nửa chó nửa khỉ cùng thần Hiểm từ Tây Nam lên Tây Bắc minh họa cho quẻ Kiền Trời sau Ai cập(2a, 2b). Tượng chúng là chi Tuất(con chó) phương Tây Bắc, 1 trong 12 chi Thuyết Can Chi. Hình 11.
-Tóm lại, khi “Đạo trời quay từ trái sang phải”, các “đại biểu văn hóa” cùng phương vị Ai cập không còn “vốn có” ở Tây Nam. Tất cả đều đến làm “khách” Tây Bắc. Con số 6 Thành Thủy Lão Âm cùng tư tưởng: “Nước chảy chỗ trũng”(1) của Lão tử sẽ mãi mãi với những người nghiên cứu Lịch sử như tôi và Ngài(3).

Chú thích:

(1)BudéRabelais_Taoisme, I’eau va à la rivièer, Cairo Octobre 1890.

(2a)Quẻ Kiền trời sau Ai cập(góc trái dưới, ảnh 1). Trên tường bên phải, hình nhân đứng trước là conLão, (đọc tránh là Liêu) 1 giống rợ nửa khỉ nửa chó phương Tây Nam(Hình nhân đứng sau làhiểm). Sau gáy, trên vai Lão làsắc Mặt trời, ánh sáng Mặt trời. Trước miệng Liêu là mồm 1 chìa khóa thứ hướng mở sang bên phải. Trên nó là Ωomega, chữ cái cuối cùng trong bảng chữ cái Hy lạp cách điệu bằng phúc uyển, cái chén úp.

(2b)Quẻ Kiền Trời sau Ai cập(ảnh 2). Hình nhân nằm trên 3 vạch quẻKiền Trời. Vạch dưới cùng đặt trên 2 cái chân chó(Sau là chân và cái đuôi, Trước là chân trước và cái đầu). Bên phải vạch dưới là nửa cái đầu con Lão Liêu. Giữa trán hình nhân, vạch trên cùng là 2 con người: 1 áo trắng, 1 áo đen chung nhau cái đuôi rắn lòng vòng như 2 cái âm vật bé gái(bạn đọc xem giữa trán hình nhân, vạch trên cùng quẻ Kiền Trời ảnh 1). Và… chú ý thêm: Đôi bàn tay vị Trời sau này nắm chặt 1 dấu X-Stop như 2 con rắn cạp nong của cái nong tằm. Một nét dấu X-Stop là cái đu(móc) cùng lông mày và khóe mắt hướng về tai trái, cái miệngPhạn đã mở.

(3)Ảnh 3 là số 6 thành Thủy trong 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trước khi bàn qua bức họa chúng tôi xin có đôi điều về sắc màu.

Ấn độ có 5 Naturfarbe Nguyên sắc: Đỏ, đen, xanh, vàng, trắng. Mỗi sắc màu đều ứng với Ngũ hành. Đỏ thuộc Hỏa, đen thuộc Thủy, xanh thuộc Mộc, trắng thuộc Kim và vàng thuộc Thổ. Nguyên sắc là màu tự nhiên chưa bị pha tạp. Như đỏ: màu huyết Người, tiết lợn. Đen: màu áo chùng thâm các Thầy tu, băng tay của người Âu Tây, màu đêm tối (tối như đêm ba mươi). Xanh: màu lá cây. Vàng: màu khương hoàngnghệ vàng, màu cái kén tằm trong đó có con Nhộng. Trắng: màu áo, khăn tang của người Á Đông. Tục xưa, chỉ người Ấn độ mới được dùng Nguyên sắc. Còn các vùng đấtáo: Intheneighbaurhood lân cận phải dùng biến sắc Farbenmichen pha màu. Những biến sắc đó là: Đỏ: đỏ thẫm, hồng nhạt, huyết dụ… Đen: xanh đen mực Nho. Xanh: xanh rêu. Vàng: vàng đậm màu gỗ Vernis… Bức họa trên đủ cả Nguyên, biến sắc màu.
Bạn đọc nhìn sắc trời bức họa, đó là màu đỏHuyết dụ. Huyết dụ là biến sắc dựa trên màu đỏ Huyết người, tiết lợn pha thêm chút trắng vàng. Thủy tức Huyết, Huyết tức Thủy, dùng Huyết dẫn dụ cho Thủy là Huyết dụ (Hình nhân đứng trên xa giá là số 1 sinh Thủy, hình nhân to lớn giữa là số 6 thành Thủy).

Dùng Huyết Beispielesblute dẫn dụ, bạn đọc nhìn lại nền trời bức họa. Lẫn dưới màu Huyết dụ là những đám mây trắng(biến sắc) được cách điệu thành 1 thứ bầy nhầy như chứng sổ mũi con trẻ. Cả Huyết dụ và dịch dãi này chảy ra từ cửa mình con bê cái 2 tháng chửa, người phương Đông gọi là Văn têmây Tây (đám mây phương Tây có văn vẻ). Nhìn sang góc phải phương Tây nam, bạn đọc sẽ thấy trên đó là cờ đuôi nheo được “văn vẻ” thành con bê. Như 2 chân sau là 2 đuôi cờ, tiếp là cái bụng chửa, còn lại là phần thân cho tới nách 2 chân trước. Và tiếp ra xa, phương Bắc, Tây bắc, Đông bắc cũng những Kỳ gicờ  trăm tuổi, đuôi nheo(nheo mắt, bạn đọc có thể thấy ở hầu hết các Pharaon Ai cập và anh chàng số 2 sinh Hoả trong bức hoạ số 6 thành Thuỷ ảnh 3).
Tại sao cờ(kỳ) lại là bê(bò) cái chửa mà không phải 1 nửa con nghé(trâu)? Ông Heinrich người Áo nói rằng: Thuở khai Thiên lập Địa, khu vực Lưỡng Hà chỉ có 2 vùng đất khởi là Veland nướcVệ và Schlechtland nướcHèn(hèn kém tức liệt thời Đông chu Liệt quốc). Vệ(Ấn độ ngày nay) có trước, Hèn(Ai cập ngày nay) có sau, biên giới 2 vùng đất giao nhau. Như đã nói ở VEDA vệ đà, vệ khí có tính lan tỏa(bạn đọc nhìn hướng mũi tên cùng cái vẩy tên “vệ” trong 2 bức họa Ấn độ ảnh 1 và 2). Hèn bị Vệ lấn át phải co về Tây nam làm cái lỗ câm đứng 1 mình như con trâu đặc(đực), Nước Lỗ()Lỗ đặc(la).

Vẫn ông Heinrich: Lịch sử 1 vùng đất quy định mọi phong tục. Chủng người nào cũng có tục thờkính(cung kính). Người Ấn độ không thờ Người mà Vật, họ cung kính những gì có trước tiên và bền vững nhất như Trời Đất, Kim Vàng…

Hà đồ của người Trung hoa nói: Số sinh thành của hành Kim là 4.9(4 là số Sinh, 9 số Thành). Trong 10 con số của Ngũ hành thì 9 là Dương số và là ngôi cao nhất. Vàngloài bền vững nhất, số 1 trong nhóm Ngũ kim(Vàng, bạc, đồng, sắt, kẽm). “TrờiĐất2 ngôi định vị”(định sẵn). Đất thấp Trời cao, Đất dưới Trời trên. Cao, trên thuộc Dương. Thấp, dưới thuộc Âm. Trời vô hình khó nắm bắt. Đất hữu hình có thể sờ nắn. Dương trường tồn (Âm đoản mệnh). Người Ấn độ Achtungsvoll cung kính Thiên Trời mà lấy Kim, Beispiel dẫn dụ. Họ thờ Vàng(ảnh 3).
Bạn đọc xem lại Trời. Chữ ThiênTrời gồm chữ đại đội đầu chữ nhất. Hán tự nhiều chữ hàm ý Trời như KiềnTrời, NhậtMặt trời… Thiên này là bầu Trời, khoảng trống thiên nhiên to lớn duy nhất.
Tiếp theo là Đất. Chữ ĐịaĐất, vế trước là chữThổ. Vế sau, dưới 2 nét chữTrạch, trên là chữMiên: Lợp trùm nhà ngoài vào nhà trong. Cũng nhiều chữ hàm ý Đất như KhônĐất, ThổĐất… Địa này là  Thổ trạch, Đất hữu hình chở đợ bao dung muôn vật. Câu “sống mái nhà, chết mồ mả” ý đó.
Thờ Thiên, người Inder kính cả Địa. Có học giả cho là xứ này không thờ Đất. Theo ông Heinrich, Trời Đất là 1 cặp Âm Dương tương thành. Chỉ Nhất Dương Trời không có “Sinh” và duy nhất Âm Đất không có Thành. Như khí táo(khô) Hin(hạn)(Hin’du) năng vận động sinh ra Nước. Có Nước mà không có sự đón nhận lâu ngày của Đất chẳng có Thành dù là côn trùng siêu nhỏ; Loài sau lớn hơn rồi hơn nữa… Và tác phẩm cuối cùng của Weltschöpfer Tạo hóa, đó là Con Người.

Đổng Thiên Vương trang 53

-Xem chú thích mới hiểu thêm về người Lỗ… Nhưng thực tình tôi vẫn phân tâm về con số 6, người China xếp Tây Bắc mà Ngài lại cả quyết ở Tây Nam?

-Ngài đã biết thể Nguyên và thể Dụng(1). Hình 5, là con số 6 thể Nguyên. Nguyên là bắt đầu. Nói là bắt đầu vì Ngũ hành lúc này còn ở giai đoạn sinh Nhất dương: Thủy Bắc 1, Hỏa Nam 2, Mộc Đông 3, Kim Tây 4, Thổ Trung ương 5. Chưa có giai đoạn thành Nhất âm: Thủy Bắc 6, Hỏa Nam 7, Mộc Đông 8, Kim Tây 9, Thổ Trung ương 10 để  “Chi vị đạo”. Hình 6.
-Kinh Veda nói: Thuở rất xưa đã có Trời(cha), Đất(mẹ)… Những hạt mưa(nước) từ trên trời rơi xuống thấm vào lòng đất lâu ngày sinh ra muôn vật?
-Ngài hỏi không sai! Theo Tam NguyênTriplemajor của Orléans, Nhà Phật cho rằng 3 cái lớn nhất là Trời-Đất-Nước.
-Và người Nước Lỗ cụ thể vấn đề trên thành tư tưởng vũ trụ Khởi Thủy trong Nội KinhPatermel Liver của Rutebeuf: Trời Đất 2 ngôi định vị. Khí dương vận động sinh ra Nước đầu tiên ở phương Bắc(2)?
-Ngài đáp không sai! Khi hành Thủy giai đoạn thành 6, cũng Thúc Hốtchớp nhoáng 4 hành Kim, Mộc, Hỏa, Thổ còn lại hoàn tất giai đoạn thành. Ngũ hành đầy đủ 10 con số Sinh Thành: Thủy Bắc 1-6, Hỏa Nam 2-7, Mộc Đông 3-8, Kim Tây 4-9 và Thổ Trung ương 5-10, trái đất thực sự quay. Hình 7. Từ Tây Nam con số 6 thành Thủy thể Nguyên đi đúng ¼ vòng lên Tây Bắc làm con số 6 thành Thủy Lão Âm thể Dụng. Hình 8.
-Tại sao ¼ mà không phải ½, là Tây Bắc không phải Đông Bắc? À… Do trái đất quay trên 1 trục nghiêng +- 23 độ, 4 vòng hết 1 chu kì và cứ ¼ vòng thì đường cung vỏ trái đất rẽ lỗi để nhập vào đường cung vòng quay khác. Hình 9.
-Ồ, khả năng suy diễn của Ngài được đấy!

Chú thích:

(1)Nguyên Kapital vốn có. Nguyêncòn là mới, bắt đầu, to lớn, đầu số, đầu người… Chữ Nguyên gồm chữ ngột(như người què chân trái, cao chót vót, bằng đầu) ở dưới, chữ nhất ở trên. Dụng Brauchbar dùng. Dụngcông dùng và còn là cái chĩnhđựng đồ ẩm thực.

(2)Kinh Veda: “Táonăngsinhthấp, nghĩa là khí táo khô năng vận động sinh ẩm thấp(ướt).

Đổng Thiên Vương trang 52

-Ngài là chuyên gia Văn minh China?

-Không! Tôi là chuyên gia Văn hóa Ai cập. Ngài cũng nghiên cứu Ai cập?

-Vâng, chúng ta đều chuyên vềNước Lỗ.

-Tôi chưa rõ tại sao con số 3 sinh Mộc phương vị Quốc gia Hy lạp xa vời, vậy mà người China lại xếp chính Đông ngay bên cạnh họ?

-Ngài nói đúng, người China lấy 4 phương chính tượng trưng để xếp các con số sinh thành Ngũ hành(Hình 1). Nếu nhìn trên mặt phẳng bản đồ ta ngỡ 2 quốc gia rất xa nhau. Nhưng quả đất tròn, “xa lại gần”. Điều này được chứng minh: Giờ 2 nước này chỉ cách nhau gần 4 tiếng(Hình 2). 2 con số 3 trên cùng phương vị.

-Tôi cũng vẫn chưa rõ tại sao con số 3 sinh Mộc lại hàm thêm Xuân như “Ba Xuân”, “duyên nợ Ba Sinh”?

-Ngài xem Hình 3. Trên hình là phương vị 4 chi trong đó có chi Sửu, 1 trong 12 địa chi thuyết Can Chi và phương vị con số 3 sinh Mộc của người China. Ngài xem tiếp hình 4. Con số 3 sinh Mộc lẽ ra phải xếp đúng chi Sửu phương Đông bắc. Vị trí là 2/3 cung Sửu. Chính xác là ngày 23 tháng Trạp(chạp đọc trại).

-Phải chăng là do 2 âmtrạp trạp: ve vẩy tai trâu mà người ta đặt tháng Trạp là tháng con Trâu nhằm ứng dụng Văn hóa?

-Ngài nói đúng nữa rồi. Nào, chúng ta cùng xem chú thích của người nước Lỗ về Tiết, Khí trong Học thuyết Vận khí thì sẽ rõ thêm về Ba Sinh(1)(2)(3).

Chú thích:

(1)Lập xuân là 1 trong 24 tiết của năm. Tiết này bắt đầu sau ngày cuối cùng tiết Đại hàn 23 tháng Trạp. Đại hàn là rét lớn. Âm cực Dương sinh, khí dương ôn(ấm) mùa Xuân đứng dậy gọi là Lập xuân.

(2)Quyết âm phong Mộc là 1 trong 6 khí lưu hành trong năm. Khí này cũng bắt đầu sau ngày cuối cùng tiết Đại hàn 23 tháng Trạp. Quyết âm là khí âm hàn(lạnh) mùa Đông, được phán quyết nhường chỗ cho khí dương ôn(ấm) mùa Xuân gió và cây.

(3)Phạnlà cơm ăn, cũng là Restaurand phạn điếm: táo bếp. Quân vương ngôi thấp hơn Trời, Đế. Táo quân là vua bếp. Tục Táo quân chầu Trời, làm mới sửa sang mồ mả Tổ tiên hoàn tất 1 năm; Tục xin lửa, gieo trồng sau ngày 23 tháng Trạp từ tính triết học 2 loại Tiết và Khí này.

Đổng Thiên Vương trang 51

-Xin hỏi, vào mặc niệm Ngài biết trước sẽ là 6 phút do đâu vậy?

-Diễn số Ngũ hành. “3 tiếng chuông đồng thanh nghe như 6”, con số 6 được diễn từ con số 3 đúp: 3+3=6.
-Là số 6 thành Thủy mà Hà đồ người Trung hoa xếp phương Tây bắc?
-Không, đó là con số 6 thể dụng. Đây là con số 6 thành Thủy thể nguyên.
-Lại vừa rồi Ngài biết trước mặc niệm sẽ còn tiếp tục cũng diễn từ “3 tiếng chuông của duy nhất thần Hiểm”?
-Không, đây là con số 3 sinh.
-Là số 3 sinh Mộc ứng phương vị Quốc gia Hy lạp trong truyện Con ngựa(gỗ) thành 3(Troy) phải không?
-Không hẳn. Cũng 3 nhưng con số 3 này là giao cấu của số 1 sinh Thủy và số 2 sinh Hỏa. 5 hành Ngũ hành thì 2 hành Thủy, Hỏa quyết định sự sinh hóa muôn vật.
-Chỉ vậy thôi tại sao gọi là sinh, Ba sinh?
-Chu Hy nói: “Nhất Âm nhất Dương chi vị đạo”. Đạo: Khai đạo, đi trước. Huấn đạo, dạy bảo… Đạo thuộc Dương(Đức thuộc Âm). Dương có công sinh(Âm thành). Nên nói 3 là nói tới sinh dù sự sống còn trong trứng nước.
-Ngài nói Chu Hy trong Kinh dịch, ông ta là người Trung hoa?
-Chulà vùng đất, Hylà sắc mặt trời, ánh sáng mặt trời. Chu Hy là vùng đất của sắc mặt trời, ánh sáng mặt trời ý chỉ Ấn độ(1).
-Ngài học triết lý Thủy Hỏa với những con số ở đâu thế?
-Ở Đạo giáo tức đạo Lão. Lão đam, Lý nhĩ, Bá dương tức Lão tử.
-Lão tử người nước nào mà có nhiều danh gọi?
-Ông ta là Lão sư người Lỗ Đặc La.
-Ngài căn cứ vào đâu mà phán vậy?
-Tôi căn cứ vào thân con sư tử ở các Pharaon Ai cập với cái đầu của nó trong bức họa số 10 thành Thổ Ấn độ. Đây, Ngài xem!
Chú thích: (1)Bạn đọc có thể thấy nghĩa lý chữ Hy, tâm điểm(Ânchính giữa, to lớn), con số Đất 30(biểu tượng Ấn độ) trang 80 Hồi 6 chuyện Đổng Thiên Vương(Thánh gióng) Lĩnh Nam chích quái: “…Vua nước ấy tên là Hy Băc Kịch(Hy: sắc mặt trời, ánh sáng mặt trời, kịchquá lắm) manh tâm(manhhành vi vô thức, tâmđiểm giữa) muốn thôn tính các nước xung quanh. Hắn bèn tự xưng Ân Vương động binh 30’ vạn quân sỹ tiến xuống xâm lăng phương Nam…” Đoạn văn trên ý là: Nguyên khí tâm điểm Ấn độ đã tràn xuống Nam Hỏa.

Đổng Thiên Vương trang 50

-Đúng! Người bản địa diễn 10 con số sinh thành Ngũ hành khi cần phải “né” tránh Cái, Số “thiêng”.

-Thiêng! Thế nào là diễn?

-Chuyện nhỏ nhưng dài lắm! Ngài chỉ cần biết trước con số 3 sinh Mộc.

Nói rồi người kia chỉ vào họa tiết Cái âm vật non tơ trên gò má trái(bên phải nó là cái mũitỵ Ông Thủy tổ sứt sẹo nham nhở) tượng Nhân sư S’phin’x, ảnh 1.

-Ngài cho thêm!

Người kia chỉ tiếp vào họa tiết Cái âm vật non tơ trên trán phải(bên phải nó, Cái to hơn là con rùa cách điệu) 1 Pharaon, ảnh 2.

-Cho thêm nữa!

Người kia chỉ tiếp vào họa tiết Cái dương vật già nua(cách điệu từ đầu con rắn, có con con mắt long lanh như 1 giọt lệ dưới góc phải bồn tắm Pharaon). Trên nó là con mắt trái. Nét trên là chữ R(viết tắt từ chữ Ra), hình bán nguyệt là tròng mắt. 2 nét dưới: Nét thẳng đứng sẽ là giọt lệ, nét nghiêng là cái râu con Ngài vểnh sang bên trái(1). Cả 3: Đầu dương vật, đuôi con mắt và râu con Ngài đều hướng sang trái, bên ấy là Ấn độ chăng? ảnh 3.

-Còn nữa không?

Người kia lại chỉ tiếp 5 Cái dương vật dựng đứng đen sì(bên trái có 5 cái tạ đối trọng) nói: Tính từ phải sang trái, Cái dương vật thứ 2 nhả ra đám tơ tằm hình hài như con chó trắng mõm dài vào bàn tay cô gái là Cái âm vật cách điệu, ảnh 4.

-Diễn hay quá, tiếp tục đi!

-Muốn gì lắm thế! Phải trái, non già, dưới trên Âm Dương đủ cả. Kìa Toutou(2), boong!

Lại chuông nhưng 3 tiếng của duy nhất của thần Hiểm. Cử tọa ngước mắt thấy ông Poebens vẫn yên vị. Họ tiếp tục cúi đầu đứng nghiêm và …’Phin’ = Phạn: ngậm theo ông chủ tọa.

Chú thích:
(1)Tín ngưỡng Aicập: Thuộc về bên trái có con Ngài, bên ấy là Ấn độ chăng? Hay “giọt nước mắt băng giá thuộc về quê Cha đất Tổ”. Bạn đọc xem họa tiết giọt lệ, nó là nét chính chữbăng giá cách điệu.
(2)Tiếng Pháp Toutou là con chó.

Đổng Thiên Vương trang 49

Chiến tranh Thế giới gần kề nhưng “vấn đề Nước Lỗ”(1) còn nổi cộm. Người ta muốn làm rõ Ai cập, vùng đất gọi là Trời, Trời sauHậu Thiên. Tuy sinh sau nhưng vị thế độc lập, không dây mơ rễ má gì với quốc gia Trời trướcTiên Thiên Ấn độ. Các nhà khoa học làm việc hối hả và kết quả dường như dành cho phái Nhị Nguyên Luận.

Lại nói Hội thảo Pharaon Ai cập. Mặc niệm lễ tang thường chỉ 1 phút. Nhưng đã 2-3 phút trôi qua mà ông chủ tọa vẫn đứng. Cái nóng xứ cát bụi, tháng 6 thử, “Hạ chí đến chó cùng đường”(2) với người Âu quả khó chịu. Cử tọa sốt ruột. Có tiếng hỏi nhỏ: Đến giờ chưa Ngài? Poebens lắc đầu ra hiệu hãy làm theo ông đứng yên ngậm miệng. Lại 1-4 phút vẫn không có dấu hiệu kết thúc sự im lặng. Cử tọa thật sự sốt ruột:

-Lâu thế hở?

-1 phút nữa!

-Ngài biết trước sao?

-Chủ tọa người gốc πtagore Greece đấy!

-Tôi không hiểu?

πtagore(3) có 1 phái Triết học gọi là Phil’Materialistisch Duy vật!

-Tôi cũng không hiểu?

-Tức chỉ duy nhất 5 vật chất Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ của người Phil = Phạn tạo nên Thế giới!

-Ngũ hành của người Phạn = Phil?

Chú thích:

(1)Lỗ Đặc La là sách triết Ấn độ bàn về Nước Lỗ(Ai cập). LaSự ủy khúc khó lý giải “cái lỗ”nước mặn, câm, đứng riêng 1 mình như con trâu đực(đặc). Bạn đọc không nhầm với Nước Lỗ, NướcTrâu(bộ ấp) phương Đông Nam Trung hoa thời Chiến quốc.
(2)Thành ngữ Trung hoa thời Đông chu liệt quốc.
(3)Bà Nothomb cho rằng π’ta’go’r’e là tên Văn chương của Hy lạp. Âm tiết Pita tượng cho Âm nhạc. Hình tiết π tượng cho Hội họa. R tượng cho 3 môn học đọc, viết và số học. E tượng cho vùng đất thứ 3(Hy lạp). Go là đi, ra đi. Các môn Triết học(Âm nhạc, Hội họa), Ngôn ngữ, Số học ra đi từ Quốc gia πtagore này.

Đổng Thiên Vương trang 48

Lại 2 tiếng boong boong, không phải từ thần Ra mà từ mông bên phải thần Hiểm(1). Ông chủ tọa Poebens người Ả rập gốc Greece tiếp tục duy trì hội thảo: Công bằng mà nói thơ cử tọa chủ nhà tuy còn ở 2 nước “nhảy ra” và “nhảy đi” của Hậu Nghệ nhưng ít nhiều cũng phản ánh được tâm tư người Ai cập. Rằng: họ đã từng có những vị vua bằng da bằng thịt hẳn hoi trong suốt những dặm trường bụi đỏ. Rằng: Những hình nhân là tranh vẽ, tượng đá tượng đồng. Rồi xác ướp kể cả các vị vua Ai cập tư thế nằm trong “áo quan” “hầm mộ”… Tất cả chỉ là phép diễn của Hội Họa cho tư tưởng Triết học. Ví như: “Lịch sử 1 vùng đất cùng 1 chủng Người” nào đó chẳng hạn… Dừng 1 lát ông Poebens hạ giọng: Hội thảo Pharaon xứ Trần Ai(2) đang đi tới cái cần tìm. Nào – Ông nhẩm đếm cử tọa hiện diện – Vào cuộc là 20 bây giờ chúng ra còn 18… Lại dừng khoảng 1 đến 2 nhịp thở… đột ngột ông Poebens cao giọng trịnh trọng: Thưa các ông, các bà! Hai cử tọa: Nhà văn trào phúng Touxten Ai cập và nhà sinh vật người Pháp Nothomb đang trên đường về với người Thiên cổ(3).
Vẫn lại boong… oong, nhưng lần này nhất loạt ở dưới bụng, bên mông và trên 2 cái váy của cả 2 thần Ra, Hiểm. 3 tiếng chuông đồng thanh phát ra nghe như 6. Ông chủ tọa cúi đầu đứng nghiêm. Cử tọa cũng đứng nghiêm cúi đầu theo ông. “Lời nguyền(4) Pharaon Hoàng đế” rồi _ có tiếng thì thầm.

 

Chú thích:
(1)Hiểmchó mõm dài, như hiểm duẫn: 1 giống rợ phía Bắc.
(2)Ai cập có cái tên Văn chương như vậy, Trần Ai. Trầncũ, (><mới) Aiđọc Thương, âm thứ 2 trong 5 âm: Cung (DoThổ), Thương, Giốc, Chủy Vũ. Trần Ai là 1 cái gì đó cũ vị thứ 2.
(3)Thiên cổ. ThiênTrời, thiênngàn, 10 trăm… Cổxưa. Người Thiên cổ là người cổ nhà Trời, người cổ nghìn thu.
(4)
Nguyềnnguyện: ước như ước muốn. Hâm mộ, do hâm mộ mà cầu xin tâm nguyện được như thế.

Đổng Thiên Vương trang 47

Nghỉ giữa giờ các cuộc Hội thảo văn nghệ thường là những phiếm luận. Quả vậy, cử tọa đi lại cởi mở với nhau. Có người nói: Người Pháp và người Anh cậy có ngôn ngữ phổ thông mà lạm dụng. Nhưng cũng có người cho rằng: Chữ viết phản ánh đời sống nên dùng chúng để nghiên cứu con người là đương nhiên. Lại có ý: Người Pháp dùng từ sai. Ví như điêu khắc thì nói bức Họa còn bức Họa thì nói điêu khắc. Cũng có người phản bác: Vẽ là dùng bút mực diễn lên Papyrus. Nhưng nếuhọa thì đã có vẽ, ngoài ra có vạch, khắc… Do vậy người ta thêm chữ hội(tụ) cho Họa. Gọi điêu khắc đã có Họa, gọi bức Họa đã có điêu khắc. Hội Họa là tụ các môn Họa.

Ý kiến qua lại nhiều nhưng cởi mở nhất là người Áo và người nước chủ nhà. Ông Heinrich:

-Tôi không hiểu tại sao biết tôi là người Áo mà bà Nothomb vẫn dùng thành ngữ Trung hoa “Giá áo túi cơm” trong khi tôi đang cởi áo chờ giải lao?

-Bà Nothomb người Pháp gốc Đức đấy!… Người Ai cập thì khôi hài hơn:

-Tiếng Đức thật thô bỉ! Pharaon RaMesses II là Vua vĩ đại nhất. Không riêng gì “của” chúng tôi, “cụ” còn là “của” loài Người, ai ai cũng phải kiêng dè. Ấy vậy giờ là “giá áo, túi cơm” thật chẳng ra thể thống gì nữa. Ôi, Vua bị lăng nhục như thần dân bị lăng nhục! Và thế là phiếm luận của người nước đăng cai bắt đầu:

– Ta thích cụ Nhân sư,

Cạo trọc đầu đi tu.

Nên vào trong Gi’za,(1)

Tránh gió thổi sương sa.

– Tôi muốn có chìa khóa,(2)

Trên mồm, tay con chó.

Để vào được hầm mộ,

Mở thêm đôi cánh cửa.(2)

– Tôi muốn có cái tai,(3)

Của ả Nhất vòi Voi.

Để về với Trần Ai,

Nghe nhạc vua tai Voi(8)(8)(8).

– Tôi muốn thành con Khỉ,(4)

Nhưng phải là vượn nhé.

Sắc mặt gan cóc tía,

Mà sâu tình thẳm ý.

– Ta muốn quỷ S’phin’x,(5)(5)

Nhao xuống vực sông Ni’n.

Giũ hết những tinh linh,

Dân yên hưởng thái bình…

Không khí trào lộng của 10 phút giải lao Hội thảo sẽ gia tăng nếu như không có 2 tiếng boong boong phát ra từ cái chuông đồng dưới bụng thần Ra mặt trời. Đi kèm là hiệu lệnh bằng tiếng Áo: Thôi đi các Ngài! Hậu nghệ(7)đã hóa làm con cóc, Molière không phục sinh. Còn AzizNesin, mẹ ông ta chưa ở cữ!

Chú thích:
(5)Quái vật Sphinx trong kịch vua Edip của Hy lạp.
(7)Tích xưa Ai cập: Hậu Nghệ đánh cắp bảo bối trường sinh của Phật hóa làm con cóc chạy trốn vào Mặt trăng.

Đổng Thiên Vương trang 46

Mene’s(1) là thứ(nhỏ). Vậy trưởng lớn là ai? Tất cả khảo cứu Pharaon của chúng tôi từ 1800 lại nay đang tới kết luận. Quốc gia Ai cập không có 1 vị vua nào là Majeur: trưởng(lớn); số I. Tất cả toàn là Mineur thứ nhỏ hơn, số II, Ra(re). Có khi thêm Me(mi) nốt thứ III trong 7 nốt nhạc Do, Re, Mi, Pha, Sol, La, Si xứ Dorian(Hy lạp).

Nói rồi bà Nothomb chỉ lên bức ảnh số 13(2) tiếp tục: Đây là 1 bức điêu khắc có tựa đề Pharaon Ramesses II. Có tiếng bàn ghế xê dịch phía cử tọa người Áo. Nothomb đột ngột trở lại bức số 2 quen thuộc: Thưa các Ông, các Ngài! Đây là bức họa “Schmarotzer,Kleiderständer”! Tiếng bàn ghế xê dịch càng mạnh, ông chủ tọa hội thảo người Araber tuyên bố giải lao(3).

Chú thích:
(1)Có thời kỳ lịch sử, người Ai cập mang cái tên như vậy, Menes.
(2)Đây là số thứ tự cho các bức ảnh, không hàm thuật số gì.
(3)GeorgeVargas, UnsouciàIndo, Lyon, Janvier 1891.

Tháng Tám 2020
H B T N S B C
 12
3456789
10111213141516
17181920212223
24252627282930
31