Giải lao lần này vui hơn trước. Cử tọa đi lại nói cười, đứng lên ngồi xuống, vặn cổ vươn vai y trong sân chơi. Dường như họ muốn xả hết hơi sau 18 phút phải nín thở cho 2 thây ma người nước Lỗ.
-Này Heinrich – Bà Doris chỉ vào 1 chú phệ lùn đứng yên cho 1 cô “lưng eo” ôm lấy bụng mình – Cái gì đây?
-Pflock mit… Cọc và… Ông Heinrich trả lời.
-Tôi không hiểu! Cậu nói tiếng gì thế? – Bà Doris hỏi.
-“Thi bổ”, thứ tiếng người ta dùng diễn văn!
-Làm gì có tiếng đó! Tôi là chuyên gia ngôn ngữ cậu biết?
-Pflock mit hay Büffel und… Cọc và trâu, trâu với cọc đều vậy thôi. Đó là loại từ Chu Văn Vương Lão tử dùng để diễn 1 ý văn, “thi bổ” hoán từ thành thô bỉ. Ông Heinrich ngần ngừ… bỗng có tiếng “tùng cắc”…
-Này Heinrich – Bà Doris chỉ vào ông Touxen và bà Nothomb đóng thế cho cái cọc trâu – Phải chăng do họ người nước Trâu mà ông ví là cọc trâu, trâu cọc? Bà Doris dùng giằng… Lại vẫn tiếng “tùng cắc”… Hai người dỏng tai, giương mắt xem đó là âm gì, từ đâu khởi thì: Đây rồi, đây rồi! Có tiếng ai đó gọi rất to. Cử tọa giật mình ngoái cổ lại thì thấy Chủ tọa Poebens vác trên vai 1 cái trống phương Đông thình thịch từ phòng Hội thảo chạy ra. Nhẹ nhàng đặt cái trống xuống góc sân chơi, ông lên giọng: “Ngôn(tiếng) gió bay, chỉ có Ngữ này là mãi mãi”.
Ngắm nghía 2 cái dùi đỏ đen, ông chủ tọa gõ cái “đen như nhọ” xuốngtâm điểm mặt trống: “Tùng”. Lại gõ tiếp cái “đỏ như sơn” lên tang trống: “Cắc”. Ông mỉm cười ý nhị: “Mời các Ngài vào vị trí tang lễ”. Cử tọa vốn nghiêm lệnh ông Poebens, họ lần lượt xếp thành vòng tròn quanh cái cọc trâu người Lỗ chờ dạo Nhạc. “Nào, tùng cắc tùng cắc, tùng cắc tùng cắc. Dung giăng dung dẻ, dung giăng dung dẻ. Một, Hai”!