Phần 1 – Thánh Gióng
Thánh Gióng trang 11
Thưa bạn đọc! Chúng tôi rất nhớ ông Hỗn Độn trong chương VII Nam hoa kinh của Trang Tử. Nhưng tại 7 khiếu ông ta mà dụng Cửu, dùng con số 9 khiếu của Người. Lại từ số 9 Lạc thư phải “dây cà dây muống” leo “Cao sơn cảnh hạng”. Bạn đọc thông cảm!Chúng tôi dịch kiểu 2:
Cao Sơn cảnh hạng là 1 câu Phú. Luật trắc bằng của Phú rất đơn giản nhưng nghiêm khắc. 4 chữ thì chữ thứ 2, chữ thứ tư khác thanh là được. Ví như: “Trời nồm tốt mạ”, “Bĩ cực thái lai”, “Ngựa tế Đồng nai”, “ Lĩnh Nam chích quái”…Cao Sơn cảnh hạng. Hạng lẽ ra phải dùng chữ này. Nhưng tác giả câu Phú tin chắc sẽ có người đọc Cao Sơn cảnh hành; Dotrên dưới 10 âm và cũng ngần ấy ngữ nghĩa. Hành tức đi là nghĩa thứ nhất.
Cũng như thơ, luật trắc bằng của Phú nhằm đảm bảo tính nhạc điệu. Bởi thế, đọcra “Cao Sơn cảnh hành” là thất luật, phi nhạc điệu. Cả 2 cái “thất” và “phi” làm cho Phú nghe buồn cười. Nếu có 9 suối chốn Cửu tuyền thì các cụ chúng ta chẳng “ngậm”, chắc chắn sẽ bật lên rằng: “Hậu sinh Nhạc Sơn! Thật uổng 2 chữ Âm luật cho tên ngươi. Đọc vậy mà Lạc Nhạc nghe được ư? Đã thế cho biết: âm hành ngươi đọc chúng ta nghe để dịch là “Ngọc”, Cao Sơn cảnh Ngọc!
Thú thật với bạn đọc chúng tôi rất hoang mang mà tự hỏi: Tại sao lại Ngọc? Hànhcơ mà! Đây mới là Ngọc. Mà Ngọc thì Ngọc nào? Ngọc Thôi lượng, Thôi vĩ, Toại châu…Ngọc Hoàng chúa tể Trời Đông hay Ngọc hoa Công chúa, Giếng Ngọc, Ngọc phả?…
Như ở phần giải 4 chữ Lĩnh Nam chích quái, nước Việt Nam ngày nay hướng chính Nam. Còn Lĩnh Nam ngày xưa hướng Đông Nam ứng với phương quẻ Thiên Trạch Lý trong viên đồ 64 quẻ kép. Bạn đọc xem hình 9A.
Thánh Gióng trang 12
Trước quẻ Thiên Trạch Lý là quẻ Địa thiên thái. Hai quẻ thì Thái đọc trước Lý đọc sau; Đọc từ phải sang trái theo chiều vận hành của Lạc thư. Thái đọc trước; Người phương Bắc lấy quẻ Thái làm phương vị bởi họ đứng ở phương Bắc Thủy sinh trước nên phải trước. Lý đọc sau; Lĩnh Nam phương Hỏa sinh sau Bắc Thủy phải chấp nhận lấy quẻ Lý làm phương vị. Dễ nhận thấy chữ Lý có trong danh gọi các triều đại phong kiến nước ta như Lý Nam Đế, Lý Thái Tổ, Lý Công Uẩn… Đặc biệt trong dân ca Lý rất nhiều, điệu hát này tập trung chủ yếu ở Trung Nam bộ. Rõ càng đi sâu vào phương Lý thì điệu Lý nở rộ xuân bông. Miền Bắc có duy nhất Lý quán dốc còn Trung Quốc thì tuyệt nhiên không.
Nói tới Lý, chúng tôi dừng lại đôi điều về họ Lý Long Tường. Họ Lý, tên Lý người phương Bắc có. Nhưng Lý Long Tường là… 1 họ lấy ý từ chữLý dép quẻ Thiên Trạch Lý trùng quái phương Đông Nam. Long là rồng tượng cho hành Hỏa cũng Đông Nam. Trong kiến trúc cổ có 1 kiểu gọi là “thành quách”. Thành ở trong, quách ở ngoài. Thành còn gọi tường tức trong. Như đã nói, Hỏa sinh sau, Âm. Số 2 là ngẫu, số chẵn, Âm. Phương Đông Nam thấp, Âm. Trong thuộc Âm(ngoài thuộc Dương). Dù phương Nam nóng, sáng(phương Bắc lạnh tối) chúng ta vẫn nói vào Nam tức đi vào trong tường, thành. “Cây”, “hoa” là tượng hình vật 2 quẻ chấn và tốn trong Hậu Thiên bát quái Mai hoa dịch. Quẻ chấn chính Đông, quẻ tốn Đông Nam. Sơn là số 9 Lạc thư cũng Đông Nam. Hoa Sơn là hiệu của họ Lý Long Tường. Vậy Lý Long Tường là Lý của người phương Nam.
Phương Đông Nam hướng quẻ Lý là biển. (Phật giáo gọi Nam hải)Ngoài đó cóCôn sơn. Sơn là số 9 Lạc thư. Côn là côn Ngọc anh emlấy ý từ 2 hành Thủy Hỏa Thúc Bá của Trang Tử. Cônlà hỗn diệu rực rỡ chói lọi vì Đông Nam phương mặt trời mọc nóng sáng.Côn là cá côn. Cá còn đọc cả, đại nghĩa Nam Hỏa cũng là phương lớn, hành lớn đối trọng ngang bằng với Bắc Thủy.
Tương truyền ngoài Nam hải có 3 hòn đảo Tiên. (3 là số sinh của hành Mộc bên trái Đông)Trong đó có một hòn gọi là Châu dinh, nhà Ngọc. Có cả Ngọc trai, những đứa con của Mỵ Châu, vùng đất Ngọc còn ngủ say mộng mị trong truyền thuyết An Dương Vương. Lại có cả Ngọc hành, 1 loài thảo dược bổ dương tráng vật… Ôi Lĩnh Nam ta nhiều Ngọc quá! Ngọc nào các nhà Nho văn dịch cho 4 âm “Cao Sơn cảnh hành” đây?
Thánh Gióng trang 13
Nói Đông ngoài chính Đông có thêm Đông Nam. Tương tự Tây, ngoài chính Tây còn thêm Tây Bắc. Trong Hậu Thiên bát quái hai quẻ kiền Trời và đoài Trạch thuộc Kim vì Kim sinh thành tại Tây. Bạn đọc xem hình 10A.
Vũ trụ có 4 phương chính Đông Tây Nam Bắc. Âm Dương là đối xứng. Đông đối Tây, Nam đối Bắc. Hai phương Bắc Nam tuy đối xứng nhưng người xưa không cho là Âm Dương. Vì 2 hành Thủy Hỏa, tuy Thủy dập tắt Hỏa nhưng Hỏa có khả năng biến Thủy thành dạng hơi. Như mặt trời là một thứ lửa đốt nóng trái đất. Hơi nước ở các sông ngòi, hồ ao, biển cả bốc lên cao. Ở trên cao hơi nước gặp lạnh ngưng thành nước rơi trở về trái đất. Chu trình này cứ diễn năm này qua năm khác. Thêm nữa “Âm trung chi Dương, Dương trung chi Âm”. Tuy sinh trước, số 1 cơ, Dương nhưng Thủy thuộc Âm. Sinh sau, số 2 ngẫu, Âm nhưng Hỏa lại thuộc Dương. Nghĩa là Thủy thì trong Âm có Dương, Hỏa thì trong Dương có Âm. 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì 2 hành Thủy Hỏa quan trọng nhất cho sự sinh hoá vạn vật. Là 2 thứ “kỳ phùng địch thủ”.
2 phương Đông Tây mới biểu đạt cho Âm Dương. Phương Đông mặt trời mọc người xưa đọc trước. Phương Tây mặt trời lặn đọc sau. “Đấng Thánh nhân quay mặt về phương Nam trị vì thiên hạ”. Phía tay trái đọc trước, tay phải đọc sau. Như “tả dực hữu dực”, “Đông đào Tây liễu”. “Xuân Thu”: Mùa xuân ứng phương Đông bên trái, mùa thu phương Tây bên phải. “Ba thu”: số 3 sinh Mộc bên trái Đông, mùa thu ứng bên phải Tây. Ba Thục: số 3 sinh Mộc bên trái Đông. Thục là chín, đun chín, đồ chín đồng âm với chín, cửu, số 9 thành Kim phương Tây bên phải… Quan niệm trước sau ở đây chỉ đơn thuần dựa theo phương mọc lặn của mặt trời. Thực ra Trời tức Dương mới tại Tây, Tây Thiên.
Thánh Gióng trang 14
Phương Tây Bắc quẻ Kiền Trời, phương đối là Đông Nam quẻ tốn. Bạn đọc xem hình 11A. Trong Hậu Thiên bát quái Mai hoa dịch, 2 quẻ Kiền và đoài Thuộc Kim vì ở Tây Kim. 2 quẻ chấn và tốn thuộc Mộc vì ở Đông Mộc. Bạn đọc xem hình 12A.
Đông Tây tức Âm Dương, Trời Đất. Tây Kim khắc được Đông Mộc, Kim khắc Mộc. Nếu ngược lại Mộc không khắc được Kim. Không như 2 hành Thủy Hỏa, Kim và Mộc phải một mất một còn. Kẻ còn đó là Dương Kim Trời. Điều này được chứng minh ở một cái lễ Nhà chùa, lễ trùng tu gọi “phạt Mộc”. Phạt không cho Mộc lấn lướt quyền cao chức trọng của Dương Kim Trời. Bởi Phật giáo với nền tảng triết học Đông phương coi Mộc là vật nhưng phải giữ 1 cực để dựng Âm Dương Đất với Trời mà thôi.
Trời Đất ở 2 ngôi định vị. Trời đứng ở Tây Bắc, Tây Thiên thì Đất nằm ở Đông Nam, Đông Thổ. Trời Thuộc dương Kiền, Đất Thuộc âm Khôn. Cũng như Mộc với Kim, Đất cũng chỉ là vật hữu dụng không thể so với Trời. Phương Đông Nam thuộc Thổ! Bạn đọc khoan bất bình vì trong Hà đồ, Thổ ứng giữa Trung ương mà đây phương Đông Nam. Có điều gì chưa ổn chăng ?
Một năm có 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông. Mùa Xuân thuộc Mộc, Hè thuộc Hỏa, Thu thuộc Kim, Đông thuộc Thủy. Trái đất quay trên một trục nghiêng khoảng 23 độ nên cứ 4 vòng hết 1 chu kỳ lại về ban đầu. 4 vòng với 4 tháng cuối của mỗi mùa đó là tháng 3 Thìn, tháng 6 Mùi, tháng 9 Tuất, tháng chạp Sửu thuộc Thổ, (có sách nói chỉ 18 ngày cuối của 4 tháng đó mới thuộc Thổ)Chúng đều ứng giữa Trung ương. Bạn đọc xem hình 13A.
Vũ trụ bên trái Đông thuộc Thủy hữu hình, biển cả. (bạn đọc không nhầm Thủy vô hình tức “nước trong nguồn” khởi ở Tây Bắc)Bên phải Tây thuộc Kim vô hình. Con người là tiểu vũ trụ. Cũng như vũ trụ Mẹ, bên trái là đường lối của Huyết, Huyết hữu hình thuộc Âm. Bên phải là đường lối của Khí, Khí vô hình thuộc Dương. Nước hữu hình biển cả cũng như Huyết trong con người ta với Mộc cây và Thổ hữu hình nữa, tất cả chỉ là vật hữu dụng. (Bạn đọc xem thang dược Tứ vật bổ Huyết và bài Tứ quân tử thang bổ Khí trong cuốn Hải Thượng lãn ông tâm lĩnh. Bác sỹ Nguyễn Văn Thang giới thiệu. Nhà xuất bản Y học)Chữ cảnh mà vật trên bức hoành trước cổng đền Hùng Vương nguyên ý “vật” hữu dụng.
Thánh Gióng trang 15
Thưa bạn đọc! Như đã nói, do chúng tôi đọc sai luật trắc bằng câu phú “Cao Sơn cảnh hạng” thành “Cao Sơn cảnh hành” mà các nhà Nho “chơi chữ nghịch âm” hành thành Ngọc.
Hà đồ Mai hoa dịch nói: Thổ sinh Kim. Thổ vô hình giữa Trung ương sinh Kim Tây. Tương tự Thổ hữu hình 4 phương phụ đều sinh được Ngọc. Trong 4 phương phụ: Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, phương Đông Nam thấp. Lại là phương đối Tây Bắc quẻ kiền Trời nên triết học lấy điển hình làm Thổ. Đông Thổ đối Tây Thiên, hữư hình đối vô hình, trái đối phải, Ngọc đối Vàng… Ngạn ngữ: “ngôn vi Ngọc, ngậm vi Kim”. Lời nói là Ngọc, im lặng là vàng phải chăng dựa vào triết lý 2 phương Âm Dương, Đông Tây, trái phải…? Chúng tôi phân vân và thật sự hoang mang về âm “hành” trong Cao Sơn cảnh hạng. Tại sao Ngọc mà thừ người trước chữ Ngọc được tra từ âm “hành” trong cuốn Tự điển Hán Việt của cố nhà sư Thiều Chửu.Ngọc này là Ngọc đeo gồm chữ Ngọc, bên cạnh thêm chữ hành thì giật nẩy người: “Cao Sơn cảnh Ngọc… hành ôhô Nhạc Sơn. Do ngươi đấy thôi. Cố tình đọc sai luật trắc bằng Phú nhưng… cũng thuận ý chúng ta! Đây là cao văn hóa, dụng số 9 Lạc thư chứ Thái gì kia mà gọi Sơn, Cao Sơn. Kim Sơn! Hymalaya…”Chúng tôi nghe như có tiếng từ rất xa những dãy non xứ Thục xuyên. Xen lẫn là tiếng rền như sấm của âm Hùng với 18 thời, ngành(nhánh chi) vương, vượngtriết học: “Cao Sơn cảnh hạng”, “Cao Sơn cảnh Ngọc”! Như trong nắng sớm mưa chiều có một cụ già đầu trời chân dép cỏ. Cụ chống cái gậy hình “một chiếc kim châm với lọ cồn”. Cổ cụ đeo lủng lẳng hai quả hồ lô dược tích hệt danh y Lý Cảo đời Tống. Gương mặt thoáng nụ cười tinh nghịch, cụ vừa đi vừa lẩm bẩm: “Ngọc được gia hành là nhanh rõ Ngọc”, “Ngọc được gia hành là nhanh rõ Ngọc”…
Thánh Gióng trang 16
Trở lại với nhân vật Hỗn Độn. 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì 2 hành Thủy Hỏa quan trọng nhất. Thủy sinh trước ngôi Đế, Hỏa sinh sau ngôi Vương. Chương VII Ứng Đế Vương Nam hoa kinh của Trang Tử bàn triết lý Thủy Hỏa.
Chúa bể Nam là Thúc, chúa bể Bắc là Hốt, chúa khu giữa là Hỗn Độn. Thúc cùng Hốt thường gặp nhau trên đất của Hỗn Độn. Hỗn Độn đối đãi họ rất tử tế. Thúc cùng Hốt mưu trả ân Hỗn Độn nói rằng: Người ta đều có 7 khiếu để trông, nghe, ăn, ngửi. Riêng ông này không có. Ta đục thử xem. Ngày đục 1 khiếu. 7 ngày mà Hỗn Độn chết.
Chúng tôi tóm lược: Hai hành Thủy Hỏa trong 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đang ở giai đoạn sinh. Thủy Hốt số 1 Bắc thấm nhuận xuống Nam. Hỏa Thúc số 2 Nam hun bốc lên Bắc. 2 hành đồng thời gặp nhau ở giữa Trung ương. Thổ lúc này vẫn ở giai đoạn sinh 5.
Giai đoạn thành của Ngũ hành được bắt đầu bằng câu “Đất lấy số 6 mà làm cho thành Thủy” Kinh dịch. Ở ngôi cao nhất trong 5 hành giai đoạn sinh đơn cực. Trong lúc đó Thủy có đầy đủ sức mạnh Âm Dương sinh thành nên giữa Trung ương lộn xộn. Hiện tượng này Trang Tử gọi bế tắc, Đổng Thiên Vương ví “giặc ân” “manh tâm muốn thôn tính các nước xung quanh”.
Muốn giải quyết tình trạng trên, hành Hỏa phải lập tức vào giai đoạn thành. Thế là “7 khiếu”, “7 ngày”, chương VII Ứng Đế Vương Nam hoa kinh của Trang Tử ra đời tượng cho hành Hỏa phương Nam cũng đầy đủ sức mạnh để “kẻ kia 9 lạng người này nửa cân”.”Gióng gánh cân bằng”. Chim bằng bể Bắc được cái “các” ao Nam đo ngang. Mọi “bế tắc” “manh tâm” giữa Trung ương Thổ hết. “Đục 7 ngày mà Hỗn Độn chết”, chữ “đục” Trang Tử lấy từ thành ngữ “cưa dứt đục thông”. Bạn đọc xem hình 14A. (Kỳ tiếp: Chuyện Đổng Thiên Vương)
Lịch
H | B | T | N | S | B | C |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | ||||||
2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 |
23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 |
30 | 31 |