Thánh Gióng
Thánh Gióng
I.THÁNH GIÓNG
Thánh Gióng trang 1
Thưa bạn đọc! Phần giải mã các truyền thuyết lịch sử bắt đầu bằng chuyện Thánh Gióng(tức Đổng Thiên Vương) trong cuốn triết học Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh. Trước khi vào chuyện chúng tôi dịch âm 4 chữ tiêu đề sách.
Lĩnh Nam là Nam Ngũ lĩnh. Ngũ là số 5 sinh Thổ, 1 trong 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Vị trí địa lý nằm giữa Đông Tây, chỗ rợp của 2 tỉnh Hồ Bắc Hồ Nam Trung Quốc. Lĩnh là nhận, nhận lấy. Theo thuyết Ngũ hành Thủy sinh từ phương Bắc thấm nhuận xuống phương Nam. Hỏa sinh từ phương Nam hun bốc lên phương Bắc. Hành Hỏa nhận tinh của hành Thủy giữa Trung ương. Lĩnhlà cái cổ. Phương Tây Bắc nơi Thủy sinh trước, phương vị quẻ Kiền Trời là đầu. Phương Đông Nam nơi Hỏa sinh sau là thân. Giữa đầu và thân là cái cổ. Lĩnh còn là đỉnh núi có cái hang thông ra đường cái. Bạn đọc nhìn chữ: gồm chữ cái cổ có chữ Sơn ở trên.
Theo thuyết Âm Dương: Đường(rộng) thuộc Dương, Ngõ(hẹp) thuộc Âm. Hành Hỏa phương Nam thuộc Dương tức đường. Không có 1 đỉnh núi nào có cái hang thông ra đường cái. Chả nhẽ lại trèo lên đỉnh núi để từ một cái hang nhảy xuống đường cái quan ư? Lĩnh này tượng cho khu vực hỗn độn tức giai đoạn sinh của hành Thổ giữa Trung ương. Chúng ta sẽ gặp lại nó với cái gọi giặc Ân trong chuyện Thánh Gióng và có thể là nhân vật triết học Hỗn độn chương VII Ứng đế Vương Nam hoa kinh của Trang Tử. Như vậy chúng tôi đã dịch 2 chữ Lĩnh Nam trong 4 chữ: “Lĩnh Nam chích quái”. Lĩnh Nam là Nam Ngũ lĩnh, còn chích quái. Quái là quẻ trong Kinh dịch. Chích là nướng, chữ Hỏa dưới, các đồ vật bị nướng trên. Chích quái là quẻ nướng.
Trong Nam hoa kinh chương XXIX, Trang tử nói về đạo Chích: “Nơi hắn(tức Chích) đi qua, nước lớn phải giữ thành, nước nhỏ phải vào lũy”. Chích quái, dùng chữ chích được 2 điều. Một : phương Nam là phương lửa. Chích cũng là lửa, chữ chích Hán tự xếp ở bộ Hỏa. Hai: Như đã nói chích chữ Hỏa dưới, các đồ vật bị nướng ở trên. Chích tức Hỏa có khả năng buộc “nước(Thủy) lớn phải giữ thành, nước(Thủy) nhỏ phải vào lũy”. Đó là lòng tự hào của người Lĩnh Nam mà lịch sử đã kiểm chứng. Tổ tiên chúng ta rất thành công trong các cuộc kháng chiến chống giặc Bắc Thủy. 4 chữ Lĩnh Nam chích quái chúng tôi dịch: “Nước Nam quẻ lửa”.
Thưa bạn đọc! chuyện Thánh gióng trong Lĩnh nam chích quái của Vũ Quỳnh Nhà xếp ở hồi 6 nhưng chúng tôi giải mã trước.Một vì: cốt chuyện hấp dẫn, tình tiết chặt chẽ mà nếu bỏ yếu tố quỷ thần thì nó là chuyện của người.Hai: Nói tới Thánh gióng người dân Việt nam ai cũng biết đó là thiên tướng do trời phái xuống giúp người nước Nam chống lại giặc Ân.Thánh gióng là niềm tự hào của người Việt nam có cả chúng tôi thuở cắp sách tới trường.Rằng: nước nam ta từng có 1 vị tướng cầm quân giỏi như thần chỉ huy đại binh nhà Hùng đánh tan 30 vạn (tổng các số chẵn trong Hà đồ) quân Ân lại còn bay được lên trời và biến mất giữa không trung như lửa.Rằng: Thánh gióng là giấc mơ ngàn đời của dân tộc Việt vì tổ tiên chúng ta sinh ra và đứng tại nam hỏa thường bị giặc thủy bắc quấy nhiễu xâm lấn…Nhưng không, thưa bạn đọc!Thánh gióng không phải nhân vật chuyện người mà chuỵên trời, triết học.“Hồi 6, thời Hùng vương ngành thứ 6”.Ở chuyện Lạc long quân diệt ngư tinh hồi 2 thời Hùng vương ngành thứ 2.Chuyện Đầm dạ Trạch hồi 3 thời Hùng vương ngành thứ 3.Chuyện họ Hồng bàng đầu tiên mở nước hồi 1…Thưa bạn đọc! đời thường các con số vô nghĩa nhưng 10 số Hà đồ và 9 số Lạc thư là những số triết học.Chuyện Thánh gióng dùng đến 2 lần con số 6 ý hướng người đọc vào số thành của thủy 1 trong 5 hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
Chúng tôi đang có trong tay 7 cuốn sách quan trọng cho việc giải mã chuyện Thánh gióng.
1-Kinh dịch.Bản dịch của Ngô Tất Tố.Nhà xuất bản văn học.
2-Mai hoa dịch.Tác giả Thiệu Khang Tiết.Bản dịch của ông Sơn Tùng.Nhà xuất bản văn hóa thông tin.
3-Nam hoa kinh.Tác giả Trang tử.Bản dịch của Nhượng tống.Nhà xuất bản văn học.Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông tây.
4-Hoàng đế nội kinh.Bản dịch của Ngô Tất Tố.Nhà xuất bản y học.
5-Hải Thượng Lãn Ông và tác phẩm Lãn Ông tâm lĩnh.Bác sỹ Nguyễn Văn Thang giới thiệu.Nhà xuất bản y học.
6-Tự điển Hán việt.Tác giả Thiều Chửu.Nhà xuất bản thanh niên.
7-Tân đính Lĩnh nam chích quái.Tác giả Vũ Quỳnh.Nhà xuất bản khoa học xã hội 1993.
Ngoài ra còn có Đạo đức kinh, Kinh dịch đạo người quân tử của Nguyễn Hiến Lê.Đại việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên.Việt nam sử lược của Trần Trọng Kim.Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi.Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan.Dịch học nhập môn của Lý Diên… Những sách trên tuy hay nhưng tạm thời chúng tôi chưa dùng đến.Mời bạn đọc chuẩn bị Kinh dịch, Mai hoa dịch, Nam hoa kinh, Lĩnh nam chích quái và Tự điển Hán việt theo dõi quá trình giải mã Lĩnh nam chích quái.(Từ đây chúng tôi chỉ nói tiêu đề sách)
Lĩnh nam chích quái viết: “Hồi 6, thời Hùng vương ngành thứ 6” trong chuyện: “Các bô lão đến sân rồng cấp báo, Đổng thiên vương vây đánh bại giặc Ân”.Đúp số 6 như đã nói tác giả chuyện có ngụ ý.Hai con số 6 làm chúng tôi nghĩ tới con số “7 ngày”, “7 Khiếu” trong chuyện vui Thúc, Hốt, Hỗn độn của Trang Tử.
Trang tử là một Triết gia.Không giống nhà giảng đạo, những vấn đề Triết học đông phương được cụ hóa văn.Như: Đạo chích (lửa chương VII), Chim bằng (nước chương I), Bào đinh trâu (Cây chương III)… Ba mươi ba chương trong Nam hoa kinh chương nào cũng đẹp như chương.Vì thế hai nhà dịch bình Nhượng Tống và Lâm Tây Trọng họ chỉ tiêu văn mà chưa muốn đào xới phần gốc.Nam hoa kinh của Trang Tử là sách Triết.Mời bạn đọc câu chuyện Hỗn độn trang 95 chương VII trước khi vào chuyện Thánh gióng.
Chúa bể nam là Thúc.Chúa Bể Bắc là Hốt.Chúa khu giữa là Hỗn độn.Thúc cùng Hốt thường gặp nhau trên đất của Hỗn độn.Hỗn độn đãi họ rất tử tế.Thúc cùng Hốt mưu trả ân Hỗn độn, nói rằng:“Người ta đều có 7 khiếu để trông, nghe, ăn, ngửi.Riêng ông này không có.Ta đục thử xem.Ngày đục 1 khiếu, 7 ngày mà Hỗn độn chết”.
Chúa là ngôi cao gần như vua, vương thường chiếm cứ một vùng đất.Bể đây không phải nơi hội tụ sông ngòi mà bể sinh ra muôn loài.Thúc là hành hỏa, Hốt là hành thủy.Hỗn độn là hành thổ.
Thánh Gióng trang 6
“Hỗn Độn đối đãi họ rất tử tế”. Tử tế là có trước sau như đối đãi. Tử tế còn là cúng sự chết. Mà cúng sự chết bao giờ cũng đủ lễ bộ nọ kia vì như thế mới “mồ yên mả đẹp”. Thực thế, nhân vật Hỗn Độn Thổ Trung ương yên vị. Ông ta còn chờ(đãi) Hốt, hành Thủy phương Bắc vào giai đoạn thành 6 với câu: “Đất lấy số 6 mà làm cho thành Thủy” Kinh dịch. “Thúc cùng Hốt mưu trả ân Hỗn Độn”. Như đã nói ânlà chính giữa. Ân còn là to lớn ý số 5. Mưulà toan tính, lo liệu. Chuyện Thánh Gióng có câu: “Ta không lo liệu sợ chúng bắn đạn đá”. Trang Tử dùng Chữ, (mưu toan)Lĩnh Nam chích quái dùng Nôm(lo liệu). Cả hai đều dùng 2 con số 5 sinh Thổ và 7 thành Hoả từ ngạn ngữ “năm lo bảy liệu”. Lo là lo nghĩ. Theo Đông y Tỳ(lá lách) ứng với số 5 giữa Trung ương thuộc Thổ, chí là lo(nghĩ). Liệulà toan tính, lo liệu. là cháy lan, tim con người ứng với số 7 thành Hoả phương Nam, chí là vui(lạc). Ta đã biết 2 con số: 5 sinh Thổ và 7 thành Hoả. Vậy trước con số 7 thành Hoả đã có số 6 thành Thuỷ. Vì như giai đoạn sinh, giai đoạn thành của Ngũ hành cũng được bắt đầu từ hành Thuỷ. “Thúc cùng Hốt nói rằng: Người ta đều có 7 khiếu để trông nghe, ăn, ngửi. Riêng Ông này không có ta đục thử xem. Ngày đục một khiếu. 7 ngày mà Hỗn Độn chết”. Thử là nóng. Tháng nóng thử là tháng 6 âm lịch, tháng cuối hè ứng phương Tây Nam thuộc Hỏa. Ngày thuộc dương(đêm thuộc âm). Hỏa thuộc dương(Thủy thuộc âm). Số 7 thuộc dương(số 6 thuộc âm). Các khái niệm:“liệu”, “thử”, “7 ngày” Trang Tử cho chúng ta biết đặt vấn đề của cụ là con số 7 thành Hỏa. Bạn đọc xem hình 2A.
“Người ta đều có 7 khiếu”. 9 khiếu chứ! Đông y cho rằng cơ thể con người có 9 cái lỗ. Cửu khiếu nhưng Trang Tử nói thất vì 2 lẽ. Thứ nhất: Hướng người đọc vào số 7 thành Hoả Thúc.
Thất khiếu. Khiếu không chỉ lỗ mà còn là kiện, khiếu kiện. Như đã nói, Ngũ tạng con người thì Tỳ(lá lách) thuộc Thổ ứng số 5 giữa Trung ương. Vậy nên khi Tỳ vận hoá kém phải dùng phép chữa gọi là kiện Tỳ. Hỗn Độn Thổ đứng số 5 là dương số, ngôi cao nhất trong 5 số sinh của Ngũ hành bế tắc lộn xộn nên Trang tử dùng khiếu. Đó là lẽ thứ nhất. Lẽ thứ 2 trong Hà đồ 5 là số sinh Thổ, 10 là số thành thổ.Bạn đọc xem hình 3A.
Thánh Gióng trang 7
Như 4 hành Kim Mộc Thủy Hỏa, Thổ cũng có 2 giai đoạn sinh thành. Giai đoạn sinh là số 5. (5 là lẻ, cơ, dương số gọi số Trời)Giai đoạn thành là số 10. (10 là chẵn, ngẫu, âm số gọi số Đất)Thất khiếu, Hỗn Độn mới có 7 trong 9, còn 2 cái nữa chúng ở đâu ?
Cũng theo Đông y, đầu con người ta thuộc dương Trời, thân thuộc âm Đất. 7 khiếu của Hỗn Độn mà Trang Tử dùng là 2 con mắt trông, 2 tai nghe, 1 miệng ăn, 2 lỗ mũi ngửi đều nằm ở phần đầu. Tức Trang Tử chỉ đề cập đến số 5 dương Trời giai đoạn sinh, không Động gì đến số 10 âm Đất thành Thổ. Cụ thừa biết cơ thể con người có 9 cái lỗ. Nhưng vì dụng con số 7 thành Hoả phương Nam mà bỏ 2 lỗ còn lại trong 9 cái ở phần thân. Như đã nói, nhân vật Hỗn Độn tượng cho số 5 Thổ giai đoạn sinh trước, đầu. (không tượng cho số 10 giai đoạn thành sau, thân)Đây là lẽ thứ 2 Trang Tử dùng thất khiếu.
Vẫn chuyện Hỗn Độn “Người ta đều có 7 khiếu để trông, nghe, ăn, ngửi. Riêng ông này không có ta đục thử xem”. Riêng ngược với chung. Nói riêng vì Hỗn Độn đứng ở số sinh 5 chưa có số 10 thành để gọi “thân chung”. Ông ta vẫn “cô dương”. Trong 5 số sinh Ngũ hành, Hỗn Độn số 5 dương số, số Trời và là ngôi cao nhất nên gọi Ông. “Ông” vì chưa có Bà để âm dương công dụng.
Riêng Ông “này”. Này từ cặp “này nọ” thành ngữ. “Này” hữu hình thuộc âm tức Hỗn Độn vẫn đơn sinh. Vật thuộc âm, dù Hỗn Độn đứng ngôi chí tôn số 5 vẫn là vật, “vật này”. Ông ta còn thiếu vế thứ 2 “nọ” để chấm dứt tình trạng mờ mịt khu giữa. Trang Tử gọi Hỗn Độn, Lĩnh Nam chích quái gọi giặc Ân. “Thúc cùng Hốt mưu trả ân”. Trả ân là trả lại trạng thái bình thường cho Thổ giữa Trung ương. Như đã nói ở trên, biết số 7 Thúc là đã biết số 6 Hốt. Vì cũng như sinh, giai đoạn thành của Ngũ hành, Thủy vào trước Hỏa. Thủy vào trước(đủ 2 số sinh 1 thành 6) Thổ Trung ương không còn yên vị. “Thúc Hốt” chớp nhoáng số 7 thành Hỏa vào theo (đủ 2 số sinh 2 thành 7). Thủy Hỏa cân bằng, số 5 sinh Thổ hết Hỗn Độn. “Mưu” của Trang Tử, “lo liệu” của Thánh Gióng Lĩnh Nam chích quái từ tính triết học này.
Thánh Gióng trang 8
Thơ Văn Phú Lục của ta phàm thể 4 chữ thì 2 chữ “tỏ”, 2 chữ còn lại “mờ”. Lĩnh Nam chích quái thì Lĩnh Nam “tỏ”, chích quái “mờ”. Lại trong 2 chữ “mờ” thì quái là “tỏ”, chữ chích kia phải để cho người đọc suy ngẫm. Mờ tỏ là 2 mặt đối lập mới thành công dụng Văn. “Ý tại ngôn ngoại” là thế. Chúng tôi lấy ví dụ: Trước cổng đền Hùng Vương treo một bức hoành đề 4 chữ. Nếu nhìn mặt chữ mà dịch ngay: Núi cao, cảnh đẹp cứ thế mà đi. Nếu dịch vậy chỉ được 1 nửa câu Phú, mà vì chỉ được một nửa nên văn chẳng có ý tứ gì cả. Cao sơn là núi cao rồi. Chữlà cảnh vật, Không phải cảnh Trời.Chúng tôi dịch: Cao Sơn cảnh hạng.
Ở chuyện Thúc Hốt Hỗn Độn chúng tôi đã nói về con số 9, 9 khiếu. Bạn đọc xem hình 4A. Nguyên số 9 trong Hà đồ là số thành của hành Kim phương Tây. Chúng tôi tóm lược 10 con số Hà đồ.
- Thuỷ sinh đầu tiên ở Bắc tượng là số 1, số thành là 6.
- Hoả sinh ở Nam tượng là số 2, số thành là 7.
- Mộc sinh ở Đông tượng là số 3, số thành là 8.
- Kim sinh ở Tây tượng là số 4, số thành là 9.
- Thổ sinh ở Trung ương tượng là số 5, số thành là 10.
Bạn đọc xem hình 5A, vận hành của Hà đồ. Hà đồ khởi từ Bắc sang Đông vì Thuỷ sinh Mộc, Đông sinh Xuân. Tiếp từ Đông sang Nam vì Mộc sinh Hỏa, Xuân sinh Hạ. Từ Nam vào giữa Trung ương vì Hoả sinh Thổ, Hạ sinh Trưởng Hạ. Giữa Trung ương sang Tây vì Thổ sinh Kim, Trưởng Hạ sinh Thu. Từ Tây lại trở về Bắc vì Kim sinh Thuỷ, Thu sinh Đông.
Hà đồ là vòng quay 1 năm. Ngoài 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, 1 năm có thêm 1 mùa nữa gọi là mùa Trưởng Hạ. Trưởng Hạ(thử) tháng 6 âm lịch, ứng phương Tây Nam, quẻ Khôn Hậu Thiên bát quái, chi Mùi trong 12 địa chi.
Thánh Gióng trang 9
Các số Hà đồ và Lạc thư. Hà đồ có 10 số, Lạc thư có 9. Trong 9 số Lạc thư thì số 9 ở ngôi cao nhất. Để ứng dụng Ngũ hành tương khắc và Văn hoá. Từ vị trí số thành của Kim phương Tây, người ta chuyển nó về Nam hoán cho 2 số sinh thành của Hỏa. Bạn đọc xem hình 6A và vận hành của Lạc thư hình 7A. Hà đồ vận hành từ trái sang phải theo chiều Ngũ hành tương sinh. Lạc thư vận hành ngược lại theo chiều Ngũ hành tương khắc. Khởi từ Bắc sang Tây vì Thủy khắc Hỏa. Từ Tây sang Nam vì Hỏa khắc Kim. Từ Nam sang Đông vì Kim khắc Mộc. Từ Đông vào giữa Trung ương vì Mộc khắc Thổ. Giữa Trung ương lên Bắc vì Thổ khắc Thủy. Hà đồ của người phương Bắc. Lạc thư. Lạclà vui thích. (tuần phương Nam là thú của các ông vua ngày xưa)Lạc còn là Âm nhạc như Ngũ thanh, Bát âm. Thưlà tiếng thông dụng cho con gái(ngược với thư là hùng, thư hùng). Hỏa Nam sinh sau Thủy Bắc. Sau thuộc Âm(trước thuộc Dương). Đất thuộc Âm(Trời thuộc Dương). Số chẵn thuộc Âm(số lẻ thuộc Dương). Con gái thuộc Âm(con trai thuộc Dương). Lạc thư của người phương Nam.
Người xưa cho là Đông, phương mặt trời mọc(trước) thuộc Dương. Tây, phương mặt trời lặn(sau) thuộc Âm. Thực ra phương Nam gần đường xích đạo nóng thuộc Dương(Xích là màu đỏ thuộc Hỏa, Hỏa thuộc Dương). Ta thấy quẻ lyHậu Thiên bát quái, quẻ KiềnTiên Thiên bát quái, quẻ Kiềnsáu vạch vị Nam. Ta thấy thêm ở 1 cái lễ ngày xưa gọi là lễ cầu Trời. Hàng năm ngày 9 tháng 9 vua tôi phải trai giới 3 ngày, quỳ gối xuống đất gọi là Đàn Nam giao. Ngửa mặt lên trời Nam cầu cho mưa thuận gió hoà dân an quốc tháí. Ý nghĩa “Dương” “Trời” ở con số 9 Lạc thư vậy, nên ngày 9 tháng 9 âm lịch là ngày duy nhất gọi trùng, Trùng cửu.
Lại nữa, phương Nam ứng với phương Bắc, Hỏa đối Thủy. Số 9 tượng lão dương Nam ứng với số 6 tượng lão âm Bắc, Sơn đối Thủy. “Voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao”. Sơn tinh Thủy tinh là chuyện triết học. Chủ đề: Cuộc chiến của nguyên khí phương Nam chống sự lấn quyền lãnh thổ của nguyên khí phương Bắc. “Hùng Vương ngành thứ 18”. 18: 1+8=9, Lạc thư vận hành xong 1 vòng , hồi đó sự sống Bắc Thủy đã tràn xuống Nam Hỏa. Cuộc chiến Sơn tinh Thủy tinh còn là cuộc đối đầu văn hoá giữa 2 con số 9 sơn Lão dương với con số 6 Thủy Lão âm. Đây là 1 trong nhiều vấn đề triết học được các nhà Nho diễn hệt chuyện Người. 2 cuốn Nam hoa kinh của Trang Tử, Lĩnh Nam chích quái và có thể là Tam quốc diễn (nghĩa?), Tây du ký… là ví dụ. Bạn đọc xem hình 8A.
Thánh Gióng trang 10
Miên man quá xin lỗi bạn đọc! Chúng tôi muốn về với “ông Hỗn Độn” nhưng đang dở dang 4 chữ Cao Sơn cảnh hành trên bức hoành trước cổng đền Hùng Vương.Chúng tôi dịch 2 kiểu: Dịch chữ(còn gọi là vọng dịch, nhìn chữ để dịch). Dịch âm(còn gọi là văn dịch, nghe âm để dịch). Phải như vậy vì chúng tôi thấy các cụ chúng ta ngày xưa Nho học uyên thâm. Thêm nữa Hán tự âm nghe giống nhau nhưng nghĩa lại hoàn toàn khác hẳn.: Cao Sơn cảnh hạng! Đây là vọng dịch kiểu 1, chữlà hạng.
Tại sao gọi hạng? “Núi cao” tức số 9 Sơn ở ngôi cao nhất trong 9 số Lạc thư như đã nói. Nếu dùng văn hóa xếp hạng thì Sơn chúng ta hạng nhất, nhì(người xưa phân hạng chỉ có 2: nhất nhì, tốt xấu). Cao sơn phương Nam! Chúng tôi thêm chữ “phương Nam” vì nói núi là nói phương Tây, núi thiên nhiên. Cũng như Thái Sơn bên Tàu, núi ở đền Hùng Vương không lấy gì làm cao so với Himalaya phương Tây Bắc nhưng lại cao. Cao đây là khoảng độ văn hoá. Hạng, Hán tự cónhưng các cụ chúng ta không mà lại dùng chữthay vì là ngụ ý. Đó là tác giả câu Phú đón lõng người đọc để “ngôn ngoại” văn dịch kiểu 2.
Thánh Gióng trang 11
Thưa bạn đọc! Chúng tôi rất nhớ ông Hỗn Độn trong chương VII Nam hoa kinh của Trang Tử. Nhưng tại 7 khiếu ông ta mà dụng Cửu, dùng con số 9 khiếu của Người. Lại từ số 9 Lạc thư phải “dây cà dây muống” leo “Cao sơn cảnh hạng”. Bạn đọc thông cảm!Chúng tôi dịch kiểu 2:
Cao Sơn cảnh hạng là 1 câu Phú. Luật trắc bằng của Phú rất đơn giản nhưng nghiêm khắc. 4 chữ thì chữ thứ 2, chữ thứ tư khác thanh là được. Ví như: “Trời nồm tốt mạ”, “Bĩ cực thái lai”, “Ngựa tế Đồng nai”, “ Lĩnh Nam chích quái”…Cao Sơn cảnh hạng. Hạng lẽ ra phải dùng chữ này. Nhưng tác giả câu Phú tin chắc sẽ có người đọc Cao Sơn cảnh hành; Dotrên dưới 10 âm và cũng ngần ấy ngữ nghĩa. Hành tức đi là nghĩa thứ nhất.
Cũng như thơ, luật trắc bằng của Phú nhằm đảm bảo tính nhạc điệu. Bởi thế, đọcra “Cao Sơn cảnh hành” là thất luật, phi nhạc điệu. Cả 2 cái “thất” và “phi” làm cho Phú nghe buồn cười. Nếu có 9 suối chốn Cửu tuyền thì các cụ chúng ta chẳng “ngậm”, chắc chắn sẽ bật lên rằng: “Hậu sinh Nhạc Sơn! Thật uổng 2 chữ Âm luật cho tên ngươi. Đọc vậy mà Lạc Nhạc nghe được ư? Đã thế cho biết: âm hành ngươi đọc chúng ta nghe để dịch là “Ngọc”, Cao Sơn cảnh Ngọc!
Thú thật với bạn đọc chúng tôi rất hoang mang mà tự hỏi: Tại sao lại Ngọc? Hànhcơ mà! Đây mới là Ngọc. Mà Ngọc thì Ngọc nào? Ngọc Thôi lượng, Thôi vĩ, Toại châu…Ngọc Hoàng chúa tể Trời Đông hay Ngọc hoa Công chúa, Giếng Ngọc, Ngọc phả?…
Như ở phần giải 4 chữ Lĩnh Nam chích quái, nước Việt Nam ngày nay hướng chính Nam. Còn Lĩnh Nam ngày xưa hướng Đông Nam ứng với phương quẻ Thiên Trạch Lý trong viên đồ 64 quẻ kép. Bạn đọc xem hình 9A.
Thánh Gióng trang 12
Trước quẻ Thiên Trạch Lý là quẻ Địa thiên thái. Hai quẻ thì Thái đọc trước Lý đọc sau; Đọc từ phải sang trái theo chiều vận hành của Lạc thư. Thái đọc trước; Người phương Bắc lấy quẻ Thái làm phương vị bởi họ đứng ở phương Bắc Thủy sinh trước nên phải trước. Lý đọc sau; Lĩnh Nam phương Hỏa sinh sau Bắc Thủy phải chấp nhận lấy quẻ Lý làm phương vị. Dễ nhận thấy chữ Lý có trong danh gọi các triều đại phong kiến nước ta như Lý Nam Đế, Lý Thái Tổ, Lý Công Uẩn… Đặc biệt trong dân ca Lý rất nhiều, điệu hát này tập trung chủ yếu ở Trung Nam bộ. Rõ càng đi sâu vào phương Lý thì điệu Lý nở rộ xuân bông. Miền Bắc có duy nhất Lý quán dốc còn Trung Quốc thì tuyệt nhiên không.
Nói tới Lý, chúng tôi dừng lại đôi điều về họ Lý Long Tường. Họ Lý, tên Lý người phương Bắc có. Nhưng Lý Long Tường là… 1 họ lấy ý từ chữLý dép quẻ Thiên Trạch Lý trùng quái phương Đông Nam. Long là rồng tượng cho hành Hỏa cũng Đông Nam. Trong kiến trúc cổ có 1 kiểu gọi là “thành quách”. Thành ở trong, quách ở ngoài. Thành còn gọi tường tức trong. Như đã nói, Hỏa sinh sau, Âm. Số 2 là ngẫu, số chẵn, Âm. Phương Đông Nam thấp, Âm. Trong thuộc Âm(ngoài thuộc Dương). Dù phương Nam nóng, sáng(phương Bắc lạnh tối) chúng ta vẫn nói vào Nam tức đi vào trong tường, thành. “Cây”, “hoa” là tượng hình vật 2 quẻ chấn và tốn trong Hậu Thiên bát quái Mai hoa dịch. Quẻ chấn chính Đông, quẻ tốn Đông Nam. Sơn là số 9 Lạc thư cũng Đông Nam. Hoa Sơn là hiệu của họ Lý Long Tường. Vậy Lý Long Tường là Lý của người phương Nam.
Phương Đông Nam hướng quẻ Lý là biển. (Phật giáo gọi Nam hải)Ngoài đó cóCôn sơn. Sơn là số 9 Lạc thư. Côn là côn Ngọc anh emlấy ý từ 2 hành Thủy Hỏa Thúc Bá của Trang Tử. Cônlà hỗn diệu rực rỡ chói lọi vì Đông Nam phương mặt trời mọc nóng sáng.Côn là cá côn. Cá còn đọc cả, đại nghĩa Nam Hỏa cũng là phương lớn, hành lớn đối trọng ngang bằng với Bắc Thủy.
Tương truyền ngoài Nam hải có 3 hòn đảo Tiên. (3 là số sinh của hành Mộc bên trái Đông)Trong đó có một hòn gọi là Châu dinh, nhà Ngọc. Có cả Ngọc trai, những đứa con của Mỵ Châu, vùng đất Ngọc còn ngủ say mộng mị trong truyền thuyết An Dương Vương. Lại có cả Ngọc hành, 1 loài thảo dược bổ dương tráng vật… Ôi Lĩnh Nam ta nhiều Ngọc quá! Ngọc nào các nhà Nho văn dịch cho 4 âm “Cao Sơn cảnh hành” đây?
Thánh Gióng trang 13
Nói Đông ngoài chính Đông có thêm Đông Nam. Tương tự Tây, ngoài chính Tây còn thêm Tây Bắc. Trong Hậu Thiên bát quái hai quẻ kiền Trời và đoài Trạch thuộc Kim vì Kim sinh thành tại Tây. Bạn đọc xem hình 10A.
Vũ trụ có 4 phương chính Đông Tây Nam Bắc. Âm Dương là đối xứng. Đông đối Tây, Nam đối Bắc. Hai phương Bắc Nam tuy đối xứng nhưng người xưa không cho là Âm Dương. Vì 2 hành Thủy Hỏa, tuy Thủy dập tắt Hỏa nhưng Hỏa có khả năng biến Thủy thành dạng hơi. Như mặt trời là một thứ lửa đốt nóng trái đất. Hơi nước ở các sông ngòi, hồ ao, biển cả bốc lên cao. Ở trên cao hơi nước gặp lạnh ngưng thành nước rơi trở về trái đất. Chu trình này cứ diễn năm này qua năm khác. Thêm nữa “Âm trung chi Dương, Dương trung chi Âm”. Tuy sinh trước, số 1 cơ, Dương nhưng Thủy thuộc Âm. Sinh sau, số 2 ngẫu, Âm nhưng Hỏa lại thuộc Dương. Nghĩa là Thủy thì trong Âm có Dương, Hỏa thì trong Dương có Âm. 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì 2 hành Thủy Hỏa quan trọng nhất cho sự sinh hoá vạn vật. Là 2 thứ “kỳ phùng địch thủ”.
2 phương Đông Tây mới biểu đạt cho Âm Dương. Phương Đông mặt trời mọc người xưa đọc trước. Phương Tây mặt trời lặn đọc sau. “Đấng Thánh nhân quay mặt về phương Nam trị vì thiên hạ”. Phía tay trái đọc trước, tay phải đọc sau. Như “tả dực hữu dực”, “Đông đào Tây liễu”. “Xuân Thu”: Mùa xuân ứng phương Đông bên trái, mùa thu phương Tây bên phải. “Ba thu”: số 3 sinh Mộc bên trái Đông, mùa thu ứng bên phải Tây. Ba Thục: số 3 sinh Mộc bên trái Đông. Thục là chín, đun chín, đồ chín đồng âm với chín, cửu, số 9 thành Kim phương Tây bên phải… Quan niệm trước sau ở đây chỉ đơn thuần dựa theo phương mọc lặn của mặt trời. Thực ra Trời tức Dương mới tại Tây, Tây Thiên.
Thánh Gióng trang 14
Phương Tây Bắc quẻ Kiền Trời, phương đối là Đông Nam quẻ tốn. Bạn đọc xem hình 11A. Trong Hậu Thiên bát quái Mai hoa dịch, 2 quẻ Kiền và đoài Thuộc Kim vì ở Tây Kim. 2 quẻ chấn và tốn thuộc Mộc vì ở Đông Mộc. Bạn đọc xem hình 12A.
Đông Tây tức Âm Dương, Trời Đất. Tây Kim khắc được Đông Mộc, Kim khắc Mộc. Nếu ngược lại Mộc không khắc được Kim. Không như 2 hành Thủy Hỏa, Kim và Mộc phải một mất một còn. Kẻ còn đó là Dương Kim Trời. Điều này được chứng minh ở một cái lễ Nhà chùa, lễ trùng tu gọi “phạt Mộc”. Phạt không cho Mộc lấn lướt quyền cao chức trọng của Dương Kim Trời. Bởi Phật giáo với nền tảng triết học Đông phương coi Mộc là vật nhưng phải giữ 1 cực để dựng Âm Dương Đất với Trời mà thôi.
Trời Đất ở 2 ngôi định vị. Trời đứng ở Tây Bắc, Tây Thiên thì Đất nằm ở Đông Nam, Đông Thổ. Trời Thuộc dương Kiền, Đất Thuộc âm Khôn. Cũng như Mộc với Kim, Đất cũng chỉ là vật hữu dụng không thể so với Trời. Phương Đông Nam thuộc Thổ! Bạn đọc khoan bất bình vì trong Hà đồ, Thổ ứng giữa Trung ương mà đây phương Đông Nam. Có điều gì chưa ổn chăng ?
Một năm có 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông. Mùa Xuân thuộc Mộc, Hè thuộc Hỏa, Thu thuộc Kim, Đông thuộc Thủy. Trái đất quay trên một trục nghiêng khoảng 23 độ nên cứ 4 vòng hết 1 chu kỳ lại về ban đầu. 4 vòng với 4 tháng cuối của mỗi mùa đó là tháng 3 Thìn, tháng 6 Mùi, tháng 9 Tuất, tháng chạp Sửu thuộc Thổ, (có sách nói chỉ 18 ngày cuối của 4 tháng đó mới thuộc Thổ)Chúng đều ứng giữa Trung ương. Bạn đọc xem hình 13A.
Vũ trụ bên trái Đông thuộc Thủy hữu hình, biển cả. (bạn đọc không nhầm Thủy vô hình tức “nước trong nguồn” khởi ở Tây Bắc)Bên phải Tây thuộc Kim vô hình. Con người là tiểu vũ trụ. Cũng như vũ trụ Mẹ, bên trái là đường lối của Huyết, Huyết hữu hình thuộc Âm. Bên phải là đường lối của Khí, Khí vô hình thuộc Dương. Nước hữu hình biển cả cũng như Huyết trong con người ta với Mộc cây và Thổ hữu hình nữa, tất cả chỉ là vật hữu dụng. (Bạn đọc xem thang dược Tứ vật bổ Huyết và bài Tứ quân tử thang bổ Khí trong cuốn Hải Thượng lãn ông tâm lĩnh. Bác sỹ Nguyễn Văn Thang giới thiệu. Nhà xuất bản Y học)Chữ cảnh mà vật trên bức hoành trước cổng đền Hùng Vương nguyên ý “vật” hữu dụng.
Lịch
H | B | T | N | S | B | C |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | ||||||
2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 |
23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 |
30 | 31 |