Đổng Thiên Vương
Đổng Thiên Vương trang 54
-Đáp ý Ngài: Tháng 12 Sửu trạp trạp “ve vẩy tai trâu” cũng đi đúng ¼ vòng từ Đông Bắc xuống Đông Nam làm nước Lỗ, nước Trâu China! Hình 10.
Chú thích:
(1)BudéRabelais_Taoisme, I’eau va à la rivièer, Cairo Octobre 1890.
(2a)Quẻ Kiền trời sau Ai cập(góc trái dưới, ảnh 1). Trên tường bên phải, hình nhân đứng trước là conLão, (đọc tránh là Liêu) 1 giống rợ nửa khỉ nửa chó phương Tây Nam(Hình nhân đứng sau làhiểm). Sau gáy, trên vai Lão làsắc Mặt trời, ánh sáng Mặt trời. Trước miệng Liêu là mồm 1 chìa khóa thứ hướng mở sang bên phải. Trên nó là Ωomega, chữ cái cuối cùng trong bảng chữ cái Hy lạp cách điệu bằng phúc uyển, cái chén úp.
(2b)Quẻ Kiền Trời sau Ai cập(ảnh 2). Hình nhân nằm trên 3 vạch quẻKiền Trời. Vạch dưới cùng đặt trên 2 cái chân chó(Sau là chân và cái đuôi, Trước là chân trước và cái đầu). Bên phải vạch dưới là nửa cái đầu con Lão Liêu. Giữa trán hình nhân, vạch trên cùng là 2 con người: 1 áo trắng, 1 áo đen chung nhau cái đuôi rắn lòng vòng như 2 cái âm vật bé gái(bạn đọc xem giữa trán hình nhân, vạch trên cùng quẻ Kiền Trời ảnh 1). Và… chú ý thêm: Đôi bàn tay vị Trời sau này nắm chặt 1 dấu X-Stop như 2 con rắn cạp nong của cái nong tằm. Một nét dấu X-Stop là cái đu(móc) cùng lông mày và khóe mắt hướng về tai trái, cái miệngPhạn đã mở.
(3)Ảnh 3 là số 6 thành Thủy trong 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trước khi bàn qua bức họa chúng tôi xin có đôi điều về sắc màu.
Ấn độ có 5 Naturfarbe Nguyên sắc: Đỏ, đen, xanh, vàng, trắng. Mỗi sắc màu đều ứng với Ngũ hành. Đỏ thuộc Hỏa, đen thuộc Thủy, xanh thuộc Mộc, trắng thuộc Kim và vàng thuộc Thổ. Nguyên sắc là màu tự nhiên chưa bị pha tạp. Như đỏ: màu huyết Người, tiết lợn. Đen: màu áo chùng thâm các Thầy tu, băng tay của người Âu Tây, màu đêm tối (tối như đêm ba mươi). Xanh: màu lá cây. Vàng: màu khương hoàngnghệ vàng, màu cái kén tằm trong đó có con Nhộng. Trắng: màu áo, khăn tang của người Á Đông. Tục xưa, chỉ người Ấn độ mới được dùng Nguyên sắc. Còn các vùng đấtáo: Intheneighbaurhood lân cận phải dùng biến sắc Farbenmichen pha màu. Những biến sắc đó là: Đỏ: đỏ thẫm, hồng nhạt, huyết dụ… Đen: xanh đen mực Nho. Xanh: xanh rêu. Vàng: vàng đậm màu gỗ Vernis… Bức họa trên đủ cả Nguyên, biến sắc màu.
Bạn đọc nhìn sắc trời bức họa, đó là màu đỏHuyết dụ. Huyết dụ là biến sắc dựa trên màu đỏ Huyết người, tiết lợn pha thêm chút trắng vàng. Thủy tức Huyết, Huyết tức Thủy, dùng Huyết dẫn dụ cho Thủy là Huyết dụ (Hình nhân đứng trên xa giá là số 1 sinh Thủy, hình nhân to lớn giữa là số 6 thành Thủy).
Dùng Huyết Beispielesblute dẫn dụ, bạn đọc nhìn lại nền trời bức họa. Lẫn dưới màu Huyết dụ là những đám mây trắng(biến sắc) được cách điệu thành 1 thứ bầy nhầy như chứng sổ mũi con trẻ. Cả Huyết dụ và dịch dãi này chảy ra từ cửa mình con bê cái 2 tháng chửa, người phương Đông gọi là Văn têmây Tây (đám mây phương Tây có văn vẻ). Nhìn sang góc phải phương Tây nam, bạn đọc sẽ thấy trên đó là cờ đuôi nheo được “văn vẻ” thành con bê. Như 2 chân sau là 2 đuôi cờ, tiếp là cái bụng chửa, còn lại là phần thân cho tới nách 2 chân trước. Và tiếp ra xa, phương Bắc, Tây bắc, Đông bắc cũng những Kỳ gicờ trăm tuổi, đuôi nheo(nheo mắt, bạn đọc có thể thấy ở hầu hết các Pharaon Ai cập và anh chàng số 2 sinh Hoả trong bức hoạ số 6 thành Thuỷ ảnh 3).
Tại sao cờ(kỳ) lại là bê(bò) cái chửa mà không phải 1 nửa con nghé(trâu)? Ông Heinrich người Áo nói rằng: Thuở khai Thiên lập Địa, khu vực Lưỡng Hà chỉ có 2 vùng đất khởi là Veland nướcVệ và Schlechtland nướcHèn(hèn kém tức liệt thời Đông chu Liệt quốc). Vệ(Ấn độ ngày nay) có trước, Hèn(Ai cập ngày nay) có sau, biên giới 2 vùng đất giao nhau. Như đã nói ở VEDA vệ đà, vệ khí có tính lan tỏa(bạn đọc nhìn hướng mũi tên cùng cái vẩy tên “vệ” trong 2 bức họa Ấn độ ảnh 1 và 2). Hèn bị Vệ lấn át phải co về Tây nam làm cái lỗ câm đứng 1 mình như con trâu đặc(đực), Nước Lỗ()Lỗ đặc(la).
Hà đồ của người Trung hoa nói: Số sinh thành của hành Kim là 4.9(4 là số Sinh, 9 số Thành). Trong 10 con số của Ngũ hành thì 9 là Dương số và là ngôi cao nhất. Vàngloài bền vững nhất, số 1 trong nhóm Ngũ kim(Vàng, bạc, đồng, sắt, kẽm). “TrờiĐất2 ngôi định vị”(định sẵn). Đất thấp Trời cao, Đất dưới Trời trên. Cao, trên thuộc Dương. Thấp, dưới thuộc Âm. Trời vô hình khó nắm bắt. Đất hữu hình có thể sờ nắn. Dương trường tồn (Âm đoản mệnh). Người Ấn độ Achtungsvoll cung kính Thiên Trời mà lấy Kim, Beispiel dẫn dụ. Họ thờ Vàng(ảnh 3).
Bạn đọc xem lại Trời. Chữ ThiênTrời gồm chữ đại đội đầu chữ nhất. Hán tự nhiều chữ hàm ý Trời như KiềnTrời, NhậtMặt trời… Thiên này là bầu Trời, khoảng trống thiên nhiên to lớn duy nhất.
Tiếp theo là Đất. Chữ ĐịaĐất, vế trước là chữThổ. Vế sau, dưới 2 nét chữTrạch, trên là chữMiên: Lợp trùm nhà ngoài vào nhà trong. Cũng nhiều chữ hàm ý Đất như KhônĐất, ThổĐất… Địa này là Thổ trạch, Đất hữu hình chở đợ bao dung muôn vật. Câu “sống mái nhà, chết mồ mả” ý đó.
Thờ Thiên, người Inder kính cả Địa. Có học giả cho là xứ này không thờ Đất. Theo ông Heinrich, Trời Đất là 1 cặp Âm Dương tương thành. Chỉ Nhất Dương Trời không có “Sinh” và duy nhất Âm Đất không có Thành. Như khí táo(khô) Hin(hạn)(Hin’du) năng vận động sinh ra Nước. Có Nước mà không có sự đón nhận lâu ngày của Đất chẳng có Thành dù là côn trùng siêu nhỏ; Loài sau lớn hơn rồi hơn nữa… Và tác phẩm cuối cùng của Weltschöpfer Tạo hóa, đó là Con Người.
Đổng Thiên Vương trang 53
-Xem chú thích mới hiểu thêm về người Lỗ… Nhưng thực tình tôi vẫn phân tâm về con số 6, người China xếp Tây Bắc mà Ngài lại cả quyết ở Tây Nam?
Chú thích:
(1)Nguyên Kapital vốn có. Nguyêncòn là mới, bắt đầu, to lớn, đầu số, đầu người… Chữ Nguyên gồm chữ ngột(như người què chân trái, cao chót vót, bằng đầu) ở dưới, chữ nhất ở trên. Dụng Brauchbar dùng. Dụngcông dùng và còn là cái chĩnhđựng đồ ẩm thực.
(2)Kinh Veda: “Táonăngsinhthấp, nghĩa là khí táo khô năng vận động sinh ẩm thấp(ướt).
Đổng Thiên Vương trang 52
-Ngài là chuyên gia Văn minh China?
-Không! Tôi là chuyên gia Văn hóa Ai cập. Ngài cũng nghiên cứu Ai cập?
-Vâng, chúng ta đều chuyên vềNước Lỗ.
-Tôi chưa rõ tại sao con số 3 sinh Mộc phương vị Quốc gia Hy lạp xa vời, vậy mà người China lại xếp chính Đông ngay bên cạnh họ?
-Ngài nói đúng, người China lấy 4 phương chính tượng trưng để xếp các con số sinh thành Ngũ hành(Hình 1). Nếu nhìn trên mặt phẳng bản đồ ta ngỡ 2 quốc gia rất xa nhau. Nhưng quả đất tròn, “xa lại gần”. Điều này được chứng minh: Giờ 2 nước này chỉ cách nhau gần 4 tiếng(Hình 2). 2 con số 3 trên cùng phương vị.
-Tôi cũng vẫn chưa rõ tại sao con số 3 sinh Mộc lại hàm thêm Xuân như “Ba Xuân”, “duyên nợ Ba Sinh”?
-Ngài xem Hình 3. Trên hình là phương vị 4 chi trong đó có chi Sửu, 1 trong 12 địa chi thuyết Can Chi và phương vị con số 3 sinh Mộc của người China. Ngài xem tiếp hình 4. Con số 3 sinh Mộc lẽ ra phải xếp đúng chi Sửu phương Đông bắc. Vị trí là 2/3 cung Sửu. Chính xác là ngày 23 tháng Trạp(chạp đọc trại).
-Phải chăng là do 2 âmtrạp trạp: ve vẩy tai trâu mà người ta đặt tháng Trạp là tháng con Trâu nhằm ứng dụng Văn hóa?
-Ngài nói đúng nữa rồi. Nào, chúng ta cùng xem chú thích của người nước Lỗ về Tiết, Khí trong Học thuyết Vận khí thì sẽ rõ thêm về Ba Sinh(1)(2)(3).
Chú thích:
(1)Lập xuân là 1 trong 24 tiết của năm. Tiết này bắt đầu sau ngày cuối cùng tiết Đại hàn 23 tháng Trạp. Đại hàn là rét lớn. Âm cực Dương sinh, khí dương ôn(ấm) mùa Xuân đứng dậy gọi là Lập xuân.
(2)Quyết âm phong Mộc là 1 trong 6 khí lưu hành trong năm. Khí này cũng bắt đầu sau ngày cuối cùng tiết Đại hàn 23 tháng Trạp. Quyết âm là khí âm hàn(lạnh) mùa Đông, được phán quyết nhường chỗ cho khí dương ôn(ấm) mùa Xuân gió và cây.
(3)Phạnlà cơm ăn, cũng là Restaurand phạn điếm: táo bếp. Quân vương ngôi thấp hơn Trời, Đế. Táo quân là vua bếp. Tục Táo quân chầu Trời, làm mới sửa sang mồ mả Tổ tiên hoàn tất 1 năm; Tục xin lửa, gieo trồng sau ngày 23 tháng Trạp từ tính triết học 2 loại Tiết và Khí này.
Đổng Thiên Vương trang 51
-Xin hỏi, vào mặc niệm Ngài biết trước sẽ là 6 phút do đâu vậy?
Đổng Thiên Vương trang 50
-Đúng! Người bản địa diễn 10 con số sinh thành Ngũ hành khi cần phải “né” tránh Cái, Số “thiêng”.
-Thiêng! Thế nào là diễn?
-Chuyện nhỏ nhưng dài lắm! Ngài chỉ cần biết trước con số 3 sinh Mộc.
Nói rồi người kia chỉ vào họa tiết Cái âm vật non tơ trên gò má trái(bên phải nó là cái mũitỵ Ông Thủy tổ sứt sẹo nham nhở) tượng Nhân sư S’phin’x, ảnh 1.
-Ngài cho thêm!
Người kia chỉ tiếp vào họa tiết Cái âm vật non tơ trên trán phải(bên phải nó, Cái to hơn là con rùa cách điệu) 1 Pharaon, ảnh 2.
-Cho thêm nữa!
Người kia chỉ tiếp vào họa tiết Cái dương vật già nua(cách điệu từ đầu con rắn, có con con mắt long lanh như 1 giọt lệ dưới góc phải bồn tắm Pharaon). Trên nó là con mắt trái. Nét trên là chữ R(viết tắt từ chữ Ra), hình bán nguyệt là tròng mắt. 2 nét dưới: Nét thẳng đứng sẽ là giọt lệ, nét nghiêng là cái râu con Ngài vểnh sang bên trái(1). Cả 3: Đầu dương vật, đuôi con mắt và râu con Ngài đều hướng sang trái, bên ấy là Ấn độ chăng? ảnh 3.
-Còn nữa không?
Người kia lại chỉ tiếp 5 Cái dương vật dựng đứng đen sì(bên trái có 5 cái tạ đối trọng) nói: Tính từ phải sang trái, Cái dương vật thứ 2 nhả ra đám tơ tằm hình hài như con chó trắng mõm dài vào bàn tay cô gái là Cái âm vật cách điệu, ảnh 4.
-Diễn hay quá, tiếp tục đi!
-Muốn gì lắm thế! Phải trái, non già, dưới trên Âm Dương đủ cả. Kìa Toutou(2), boong!
Lại chuông nhưng 3 tiếng của duy nhất của thần Hiểm. Cử tọa ngước mắt thấy ông Poebens vẫn yên vị. Họ tiếp tục cúi đầu đứng nghiêm và …’Phin’ = Phạn: ngậm theo ông chủ tọa.
(1)Tín ngưỡng Aicập: Thuộc về bên trái có con Ngài, bên ấy là Ấn độ chăng? Hay “giọt nước mắt băng giá thuộc về quê Cha đất Tổ”. Bạn đọc xem họa tiết giọt lệ, nó là nét chính chữbăng giá cách điệu.
(2)Tiếng Pháp Toutou là con chó.
Đổng Thiên Vương trang 49
Chiến tranh Thế giới gần kề nhưng “vấn đề Nước Lỗ”(1) còn nổi cộm. Người ta muốn làm rõ Ai cập, vùng đất gọi là Trời, Trời sauHậu Thiên. Tuy sinh sau nhưng vị thế độc lập, không dây mơ rễ má gì với quốc gia Trời trướcTiên Thiên Ấn độ. Các nhà khoa học làm việc hối hả và kết quả dường như dành cho phái Nhị Nguyên Luận.
Lại nói Hội thảo Pharaon Ai cập. Mặc niệm lễ tang thường chỉ 1 phút. Nhưng đã 2-3 phút trôi qua mà ông chủ tọa vẫn đứng. Cái nóng xứ cát bụi, tháng 6 thử, “Hạ chí đến chó cùng đường”(2) với người Âu quả khó chịu. Cử tọa sốt ruột. Có tiếng hỏi nhỏ: Đến giờ chưa Ngài? Poebens lắc đầu ra hiệu hãy làm theo ông đứng yên ngậm miệng. Lại 1-4 phút vẫn không có dấu hiệu kết thúc sự im lặng. Cử tọa thật sự sốt ruột:
-Lâu thế hở?
-1 phút nữa!
-Ngài biết trước sao?
-Chủ tọa người gốc πtagore Greece đấy!
-Tôi không hiểu?
– πtagore(3) có 1 phái Triết học gọi là Phil’Materialistisch Duy vật!
-Tôi cũng không hiểu?
-Tức chỉ duy nhất 5 vật chất Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ của người Phil = Phạn tạo nên Thế giới!
-Ngũ hành của người Phạn = Phil?
Chú thích:
(1)Lỗ Đặc La là sách triết Ấn độ bàn về Nước Lỗ(Ai cập). LaSự ủy khúc khó lý giải “cái lỗ”nước mặn, câm, đứng riêng 1 mình như con trâu đực(đặc). Bạn đọc không nhầm với Nước Lỗ, NướcTrâu(bộ ấp) phương Đông Nam Trung hoa thời Chiến quốc.
(2)Thành ngữ Trung hoa thời Đông chu liệt quốc.
(3)Bà Nothomb cho rằng π’ta’go’r’e là tên Văn chương của Hy lạp. Âm tiết Pita tượng cho Âm nhạc. Hình tiết π tượng cho Hội họa. R tượng cho 3 môn học đọc, viết và số học. E tượng cho vùng đất thứ 3(Hy lạp). Go là đi, ra đi. Các môn Triết học(Âm nhạc, Hội họa), Ngôn ngữ, Số học ra đi từ Quốc gia πtagore này.
Đổng Thiên Vương trang 48
Lại 2 tiếng boong boong, không phải từ thần Ra mà từ mông bên phải thần Hiểm(1). Ông chủ tọa Poebens người Ả rập gốc Greece tiếp tục duy trì hội thảo: Công bằng mà nói thơ cử tọa chủ nhà tuy còn ở 2 nước “nhảy ra” và “nhảy đi” của Hậu Nghệ nhưng ít nhiều cũng phản ánh được tâm tư người Ai cập. Rằng: họ đã từng có những vị vua bằng da bằng thịt hẳn hoi trong suốt những dặm trường bụi đỏ. Rằng: Những hình nhân là tranh vẽ, tượng đá tượng đồng. Rồi xác ướp kể cả các vị vua Ai cập tư thế nằm trong “áo quan” “hầm mộ”… Tất cả chỉ là phép diễn của Hội Họa cho tư tưởng Triết học. Ví như: “Lịch sử 1 vùng đất cùng 1 chủng Người” nào đó chẳng hạn… Dừng 1 lát ông Poebens hạ giọng: Hội thảo Pharaon xứ Trần Ai(2) đang đi tới cái cần tìm. Nào – Ông nhẩm đếm cử tọa hiện diện – Vào cuộc là 20 bây giờ chúng ra còn 18… Lại dừng khoảng 1 đến 2 nhịp thở… đột ngột ông Poebens cao giọng trịnh trọng: Thưa các ông, các bà! Hai cử tọa: Nhà văn trào phúng Touxten Ai cập và nhà sinh vật người Pháp Nothomb đang trên đường về với người Thiên cổ(3).
Vẫn lại boong… oong, nhưng lần này nhất loạt ở dưới bụng, bên mông và trên 2 cái váy của cả 2 thần Ra, Hiểm. 3 tiếng chuông đồng thanh phát ra nghe như 6. Ông chủ tọa cúi đầu đứng nghiêm. Cử tọa cũng đứng nghiêm cúi đầu theo ông. “Lời nguyền(4) Pharaon Hoàng đế” rồi _ có tiếng thì thầm.
Chú thích:
(1)Hiểmchó mõm dài, như hiểm duẫn: 1 giống rợ phía Bắc.
(2)Ai cập có cái tên Văn chương như vậy, Trần Ai. Trầncũ, (><mới) Aiđọc Thương, âm thứ 2 trong 5 âm: Cung (DoThổ), Thương, Giốc, Chủy Vũ. Trần Ai là 1 cái gì đó cũ vị thứ 2.
(3)Thiên cổ. ThiênTrời, thiênngàn, 10 trăm… Cổxưa. Người Thiên cổ là người cổ nhà Trời, người cổ nghìn thu.
(4)Nguyềnnguyện: ước như ước muốn. Hâm mộ, do hâm mộ mà cầu xin tâm nguyện được như thế.
Đổng Thiên Vương trang 47
Nghỉ giữa giờ các cuộc Hội thảo văn nghệ thường là những phiếm luận. Quả vậy, cử tọa đi lại cởi mở với nhau. Có người nói: Người Pháp và người Anh cậy có ngôn ngữ phổ thông mà lạm dụng. Nhưng cũng có người cho rằng: Chữ viết phản ánh đời sống nên dùng chúng để nghiên cứu con người là đương nhiên. Lại có ý: Người Pháp dùng từ sai. Ví như điêu khắc thì nói bức Họa còn bức Họa thì nói điêu khắc. Cũng có người phản bác: Vẽ là dùng bút mực diễn lên Papyrus. Nhưng nếuhọa thì đã có vẽ, ngoài ra có vạch, khắc… Do vậy người ta thêm chữ hội(tụ) cho Họa. Gọi điêu khắc đã có Họa, gọi bức Họa đã có điêu khắc. Hội Họa là tụ các môn Họa.
Ý kiến qua lại nhiều nhưng cởi mở nhất là người Áo và người nước chủ nhà. Ông Heinrich:
-Tôi không hiểu tại sao biết tôi là người Áo mà bà Nothomb vẫn dùng thành ngữ Trung hoa “Giá áo túi cơm” trong khi tôi đang cởi áo chờ giải lao?
-Bà Nothomb người Pháp gốc Đức đấy!… Người Ai cập thì khôi hài hơn:
-Tiếng Đức thật thô bỉ! Pharaon RaMesses II là Vua vĩ đại nhất. Không riêng gì “của” chúng tôi, “cụ” còn là “của” loài Người, ai ai cũng phải kiêng dè. Ấy vậy giờ là “giá áo, túi cơm” thật chẳng ra thể thống gì nữa. Ôi, Vua bị lăng nhục như thần dân bị lăng nhục! Và thế là phiếm luận của người nước đăng cai bắt đầu:
– Ta thích cụ Nhân sư,
Cạo trọc đầu đi tu.
Nên vào trong Gi’za,(1)
Tránh gió thổi sương sa.
– Tôi muốn có chìa khóa,(2)
Trên mồm, tay con chó.
Để vào được hầm mộ,
Mở thêm đôi cánh cửa.(2)
– Tôi muốn có cái tai,(3)
Của ả Nhất vòi Voi.
Để về với Trần Ai,
Nghe nhạc vua tai Voi(8)(8)(8).
– Tôi muốn thành con Khỉ,(4)
Nhưng phải là vượn nhé.
Sắc mặt gan cóc tía,
Mà sâu tình thẳm ý.
– Ta muốn quỷ S’phin’x,(5)(5)
Nhao xuống vực sông Ni’n.
Giũ hết những tinh linh,
Dân yên hưởng thái bình…
Không khí trào lộng của 10 phút giải lao Hội thảo sẽ gia tăng nếu như không có 2 tiếng boong boong phát ra từ cái chuông đồng dưới bụng thần Ra mặt trời. Đi kèm là hiệu lệnh bằng tiếng Áo: Thôi đi các Ngài! Hậu nghệ(7)đã hóa làm con cóc, Molière không phục sinh. Còn AzizNesin, mẹ ông ta chưa ở cữ!
Chú thích:
(5)Quái vật Sphinx trong kịch vua Edip của Hy lạp.
(7)Tích xưa Ai cập: Hậu Nghệ đánh cắp bảo bối trường sinh của Phật hóa làm con cóc chạy trốn vào Mặt trăng.
Đổng Thiên Vương trang 46
Mene’s(1) là thứ(nhỏ). Vậy trưởng lớn là ai? Tất cả khảo cứu Pharaon của chúng tôi từ 1800 lại nay đang tới kết luận. Quốc gia Ai cập không có 1 vị vua nào là Majeur: trưởng(lớn); số I. Tất cả toàn là Mineur thứ nhỏ hơn, số II, Ra(re). Có khi thêm Me(mi) nốt thứ III trong 7 nốt nhạc Do, Re, Mi, Pha, Sol, La, Si xứ Dorian(Hy lạp).
Nói rồi bà Nothomb chỉ lên bức ảnh số 13(2) tiếp tục: Đây là 1 bức điêu khắc có tựa đề Pharaon Ramesses II. Có tiếng bàn ghế xê dịch phía cử tọa người Áo. Nothomb đột ngột trở lại bức số 2 quen thuộc: Thưa các Ông, các Ngài! Đây là bức họa “Schmarotzer,Kleiderständer”! Tiếng bàn ghế xê dịch càng mạnh, ông chủ tọa hội thảo người Araber tuyên bố giải lao(3).
Chú thích:
(1)Có thời kỳ lịch sử, người Ai cập mang cái tên như vậy, Menes.
(2)Đây là số thứ tự cho các bức ảnh, không hàm thuật số gì.
(3)GeorgeVargas, UnsouciàIndo, Lyon, Janvier 1891.
Đổng Thiên Vương trang 45
Vedavệ đà. Vệ: khí như không khí(1), bảo vệ như thân vệ, giữ mình. Vệ còn là cái vẩy của bộ cung tên… Đà: giống ngựa cõng, ngựa thồ đồ đạc hàng hóa. Đà còn là(2) thắng đà lông ngỗng… Bà Nothomb đang định bàn về triết lý táo khí, khí khô Hin hạn Ấn độ “táo năng sinh thấp” thì… vẫn là ông Heinrich người Áo:
– Thưa bà Nothomb! Chúng ta đang bàn bức điêu khắc Pharaon Ai cập, tự nhiên lại nhảy sang Hội họa Ấn độ và bây giờ là Triết học của người bản địa. Như vậy có lan man dẫn tới lạc đề không?
– Thưa ông Heinrich… Bà Nothomb chỉ vào hình nhân nằm trong cái bồn tắm: Đây là 1 bức điêu khắc có tựa đề Pharaon Menes.
Chú thích:
(1)2 mặt âm dương Khí Huyết quyết định bệnh tật và tuổi thọ con Người. Khí vô hình thuộc phần vệ, Huyết hữu hình thuộc phần vinh, Đông y gọi là Thủy Hỏa vinh vệ. Hỏa tức khí, khí tức Hỏa, bạn đọc chú ý những họa tiết màu lửa chủ đạo, hướng đi của xe, ngựa, mũi tên (cung tên)… Thủy tức Huyết, Huyết tức Thủy, bạn đọc chú ý thêm những họa tiết màu máu chủ đạo, màu mực, dòng nước, ao hồ… trong các bức họa Ấn độ.
(2)Thân con ngỗng thì phần xương thịt ở bên trong, da lông ở bên ngoài. Hằng nga là con ngỗng Hindu. Bạn đọc có thể thấy nghĩa lý của vùng đất cáchda lông con vật bỏ đi ở tình tiết cái áo lông chim(ngỗng cũng là 1 loài chim) của Mỵ Châu trong chuyện Thục An Dương Vương Lĩnh Nam chích quái.
Lịch
H | B | T | N | S | B | C |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | ||||||
2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 |
23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 |
30 | 31 |