Thánh Gióng trang 13
Thánh Gióng trang 13
Nói Đông ngoài chính Đông có thêm Đông Nam. Tương tự Tây, ngoài chính Tây còn thêm Tây Bắc. Trong Hậu Thiên bát quái hai quẻ kiền Trời và đoài Trạch thuộc Kim vì Kim sinh thành tại Tây. Bạn đọc xem hình 10A.
Vũ trụ có 4 phương chính Đông Tây Nam Bắc. Âm Dương là đối xứng. Đông đối Tây, Nam đối Bắc. Hai phương Bắc Nam tuy đối xứng nhưng người xưa không cho là Âm Dương. Vì 2 hành Thủy Hỏa, tuy Thủy dập tắt Hỏa nhưng Hỏa có khả năng biến Thủy thành dạng hơi. Như mặt trời là một thứ lửa đốt nóng trái đất. Hơi nước ở các sông ngòi, hồ ao, biển cả bốc lên cao. Ở trên cao hơi nước gặp lạnh ngưng thành nước rơi trở về trái đất. Chu trình này cứ diễn năm này qua năm khác. Thêm nữa “Âm trung chi Dương, Dương trung chi Âm”. Tuy sinh trước, số 1 cơ, Dương nhưng Thủy thuộc Âm. Sinh sau, số 2 ngẫu, Âm nhưng Hỏa lại thuộc Dương. Nghĩa là Thủy thì trong Âm có Dương, Hỏa thì trong Dương có Âm. 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì 2 hành Thủy Hỏa quan trọng nhất cho sự sinh hoá vạn vật. Là 2 thứ “kỳ phùng địch thủ”.
2 phương Đông Tây mới biểu đạt cho Âm Dương. Phương Đông mặt trời mọc người xưa đọc trước. Phương Tây mặt trời lặn đọc sau. “Đấng Thánh nhân quay mặt về phương Nam trị vì thiên hạ”. Phía tay trái đọc trước, tay phải đọc sau. Như “tả dực hữu dực”, “Đông đào Tây liễu”. “Xuân Thu”: Mùa xuân ứng phương Đông bên trái, mùa thu phương Tây bên phải. “Ba thu”: số 3 sinh Mộc bên trái Đông, mùa thu ứng bên phải Tây. Ba Thục: số 3 sinh Mộc bên trái Đông. Thục là chín, đun chín, đồ chín đồng âm với chín, cửu, số 9 thành Kim phương Tây bên phải… Quan niệm trước sau ở đây chỉ đơn thuần dựa theo phương mọc lặn của mặt trời. Thực ra Trời tức Dương mới tại Tây, Tây Thiên.
Lịch
H | B | T | N | S | B | C |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | ||||||
2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 |
23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 |
30 | 31 |