Chuyện làng Phù Đổng
Đổng thiên vương trang 31
Chúng tôi tiếp tục về râu ria của Pita(1). Ria mép ông chia 2, nửa non vểnh lên nửa già quặp xuống. Bạn đọc nhìn râu và miệng, chúng hoàn toàn là phần dưới con Người: Môi là đai lưng. Râu cằm đôi nửa là 2 ống quần giạng ra, giữa là cái lỗ, như má phải còn dính bết 2 sợi “tóc”. Nửa non ria mép Pita vểnh lên tượng cho tư tưởng Hy lạp. Nửa già quặp xuống tượng cho tư tưởng Ấn độ ôm lấy hình vật người đàn bà.
Râu ria Pita chỉ gây chú ý, không quyết định. Cái mũi của ông thoáng nhìn bỏ qua nhưng quyết định chủ đề bức tượng.
Theo sắc tướng Ấn độ, từng bộ phận trên mặt Người đều ứng với Ngũ hành. Như tai phải thuộc Kim, tai trái thuộc Mộc, cằm thuộc Thủy, trán thuộc Hỏa và mũitỵ thuộcThổ. Mũi cao thẳng, sắc tím tía treo như buồng mật con bò là tướng mũi cựphú. Loại mũi này dân gian Việt nam gọi mũi Hin.
Tỵ là núm cái ấm trà, cái núm con dấu in ấn. Bạn đọc xem 5 chóp mũ, đầu con cá(trái), đầu ngọn đèn đỏ(phải) của bức họa Bà la môn. Chúng được cách điệu từ 2 cái núm nói trên.
Không chỉ cái mũi, núm ấm trà, núm con dấu in ấn; Tỵ còn là trước tiên như Ông thủy tổ tục gọiTỵ tổ.
Chú thích:
(1)Tiếng Anh Pit-a‘-pat là âm(tiếng). Âm tiếng là 1 thành tố Âm nhạc. Tiếng Phoen’ici = Phạn là tiếng tượng hình(sắc). Hình sắc là 1 thành tố Hội họa. ‘tagore, hình tiết và âm tiết Pita diễn đạt tư tưởng Nhạc Họa của ông.
Đổng thiên vương trang 32
Chúng tôi tạm thời dừng 2 cái mũi Ấn độ và Hy lạp chuyển sang lĩnh vực Âm nhạc và Toán học của Pitago.
Nghiên cứu Âm nhạc, Pitago dùng âm Do Ngũ cung thêm vào 2 nốt phụ cho đủ thất cung 7 âm. Trên cơ sở Dur tự nhiên, Moll tự nhiên phương Tây, ông thay đổi 1 hai nốt thành 7 điệu thức cổ Hy Lạp: Dorien, Ionen, Hypophriden…(1)Bạn đọc xem 5 nốt của âm ĐộThổ:(2)
Âm do Ấn độ | 1 | 2 | 3 | (?) | 4 | 5 | (?) |
đô | rê | mi | xon | la |
và Dorien Hy lạp | I | II | III | IV | V | VI | VII |
Do | Re | Mi | Fa | Sol | La | Si |
Ta thấy ĐộThổ có 5 âm đô, rê, mi, xon, la(không có Fa, Si). Nhưng Do Hy lạp có 7 âm (thêm 2 Fa, Si). Ngành Nhạc gọi điệu thức Do’ri’an, thuộc về âm Do và âm Re. C Dur đô trưởng ngày nay nhân loại đang dùng chính nó.
Là Triết gia kiêm toán, Pitago dùng 4 trong 10 con số Ngũ hành để giải thích hình học, ông cho:
* Số 1 là tâm, kẻ 1 đường thẳng đến điểm 2. Tuy ngẫu, chẵn, âm số nhưng số 2 là số sinh của hành Hỏa. Hỏa thuộc dương(Thủy thuộc âm), số 2 là đường.
* Số 2 là đường, kẻ tiếp 1 đường thẳng đến điểm 3. Số 3 là diện tích.
* Số 3 là diện tích. Là số sinh của hành Mộc gồm số 1 cộng số 2. “Nhất Âm nhất Dương chi vị đạo”. 1 số dương và 1 số âm, số 3 được coi là số Trời. “Trời tròn, đường kính bằng 1 chu vi bằng 3”. Số Pi ≥ 3,14 dùng để tính diện tích đường tròn của tagore.(là chữ cái đầu trong tên ông).
* Số 4 là thể tích. Từ 3 điểm của 3 góc tam giác tâm, 2,3 Pitago nối chúng với điểm thứ tư. Bạn đọc xem hình dưới. Thể tích là dạng chứa đựng, Pitago lấy nó tượng cho đất.
Chú thích:
(1)Điệu thức dân ca Nam bộ Việt nam: Moll(thứ) tự nhiên nhưng nốt VI được tăng lên ½ cung là Ionen:
DMoll Nam bộ: | I | II | III | IV | V | VI | VII | VIII |
Re | Mi | Fa | Sol | La | Si | Do | Re |
Điệu thức các nước khối Ả rập: Moll(thứ) tự nhiên nhưng nốt II hạ xuống ½ cung là Hypophriden:
EMoll Ả rập: | I | II | III | IV | V | VI | VII | VIII |
Mi | Fa | Sol | La | Si | Do | Re | Mi |
2)Còn gọi là cung của Ngũ âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ. Mỗi âm đều ứng với 5 trong 10 con số 1, 2, 3, 4, 5 của Ngũ hành. Như âm Cung thuộcThổ số 1, âm Thương thuộc Kim số 2, Giốc thuộc Mộc số 3, Chủy thuộc Hỏa số 4 và Vũ thuộc Thủy số 5. Nhạc Ấn độ ghi bằng số gọi là Nhạc số.
Đổng thiên vương trang 33
Thưa bạn đọc! Chúng tôi vẫn đang bàn “Sông Hà” Kinh dịch.
Quốc ngữ Việt Nam thuộc hệ La tinh được người Pháp phiên âm từ chữ Nôm. Chữ Nôm là thể “ nôm na” trên nền tảng chữ Hán. Chữ Hán lại dựa và phát triển từ tiếng Phạn.
Quốc ngữ Pháp như thừa kế tiếng Ai cập. Tiếng Ai cập cũng phiên từ 1 loại tiếng tượng hình Phoen’ix = Phạn(1). Chúng tôi nghĩ phải chăng “qui về 1 mối” Phạn mà với Việt nam, người Pháp dịch được nhiều chữ như Cửu long, Côn lôn cả Truyện Kiều của Nguyễn Du sang tiếng Pháp(2). Và với Ai cập, họ cũng dịch nhiều ký tự, giải nhiều loại mã hoá như bức chân dung vua Ai cập bên. Chúng tôi chưa có ý định bàn sâu bức Họa này mà chỉ mách trước với bạn đọc 2 chữ tiếng Phạn trên đường viền áo vị vua. Chữ dưới cùngvương gồm chữ ĐộThổ đội trên đầu chữ — nhất. Chữ nhất là 1 gạch ngang được cách điệu thành 1 cái lông chim có cái đầu bằng(3). Tiếng Phạn và chữ Hán vương là hầu, thầnthứ. Tiếp lên trên vương là chữhựu. Hựu đọc “lại” nghĩa đi rồi lại như “ nói đi nói lại”, “bàn đi bàn lại”(4)…
Chú thích:
(1)Bạn đọc nhìn lại vế sau chữphạn gồm chữhựu dưới chữhán. Tiếng Phạn không có chữ phạn. Phạn này người Hán Trung dựng lại từ âm phạn Tiếng Phạn.
(2)Tuy dễ làm nhưng thơ Lục bát cũng có vần lối(kiểu). Ví dụ 1 câu lục:“ Lên dần dây vũ dây văn”. Như đã nói Nhạc Ấn độ có 5 âm: Cung, (ĐộThổ)Thương, Giốc, Chủy, Vũ. Âm vũ thuộc Thuỷ, Thuỷ sinh thành tại Bắc. Biết vế chính Bắc sẽ suy ra vế hoá Nam. Âm chủy thuộc Hoả, Hoả sinh thành tại Nam. Dây vũ dây văn. Lẽ ra phải nói dây vũ dây chuỷ. Văn chương người xưa cho biết rõ vế thứ nhất. Vế thứ hai người đọc suy luận. Tượng nhân vật quẻ Ly Hậu thiên bát quái Mai hoa dịch Thiệu Khang Tiết nói: “ Người phương Nam kiến lợi văn chương tư tâm sách vở”. Không có 1 Nhạc khí nào có dây vũ và văn cả. Lên dần dây vũ dây văn là so đọ Bắc Nam, Thuỷ Hoả tức cao thấp cho dây đàn.
(3)Ai cập phương Tây bắc(chính) Trung hoa vị Đông nam(hóa). Chim bằng(cá côn) trong Tiêu dao du Nam hoa kinh của Trang Tử diễn lại “cái lông chim” này.
(4)Do hiện vật nứt, giữa 2 chữ vương và hựu chúng tôi không xác định được ký hay tự.
Đổng thiên vương trang 34
Trước khi vào 2 chữ vương và hựu trên đường viền áo(1) chân dung vua Ai cậpII(2), bạn đọc chú ý con số II. II là số lớn La mã(số Ấn độ là số nhỏ). Bạn đọc nhìn tiếp vào trán vị vua. Hình, nửa bên phải là bộ râu Pitago. Chúng tôi xác định hiện vật chế tác sau khi có 2 quốc gia(3) Hy lạp vàLa mã.
Vương là hầu, thần thứ. Chữ Nôm ta nếu đọc vua là con người bằng da bằng thịt. Nhưng đọc vương chưa chắc. Do vương nhiều nghĩa trong đó có 1 nghĩa tước(chức) vương. Như thiên vương trong Đổng Thiên Vương(Thánh Gióng) không thể gọi vua Trời. Bởi TrờiĐế ngôi chí tôn chả lẽ bằng vua. Rồi vương trong vương quốc Ai cập, vương quốc Hy lạp không thể dịch “vua nước” hoặc “nước vua”…Cái gọi vua Ai cập là tước vương, thần thứ. Bạn đọc xem ảnh thần mặt trời Ai cập còn có tên thần Ra. Ra, Re là nốt thứ II trong 7 nốt nhạc Dorian Hy lạp Do, Re, Mi, Fa, Sol, La, Si. Bạn đọc xem thêm 2 chữAi cập. Cập thuộc bộ hựu nghĩa kịp đến. Từ sau đến như hết anh lại đến em. Ai cập quốc gia anh hay em? Nếu em là thứ mấy? Ai cập Ai đọc Thương. Âm thứ 2 trong 5 âm Cung, (ĐộThổ)Thương, Giốc, Chủy, Vũ. Cái gọi vua Ai cập là tước vương, mặt trời thứ II(4).
Ông Guillaume cho rằng hình nhân vua Ai cập II không phải đàn ông cũng chẳng phải đàn bà. Đàn ông lại mặc váy? Đàn bà sao không có ngực(5)? Bạn đọc theo dõi chúng tôi dịch chữ Pharaon II.
Chú thích:
(1)Đường viền áođọc đam. Đam trong danh gọi Lão Đam tức Lão Tử, Lý Nhĩ là chữ đam này. Lão Tử người Ai cập?
(2)Pharaon II người Pháp dịch là Vua Ai cập II, do tiếng Pháp có 1 chữ Pha’ra’on cũng gồm 3 âm tiết.
(3)Từ 4 chữ Hy, Mã, Lạp, Sơn. Sơn là núi. Hy là sắc mặt trời. Lạp là 1 thứ kim loại pha giữa chì và thiếc dùng hàn đồ. Mã là cán cân Thiên bình. Hy Mã Lạp Sơn là ngọn núi xứ mặt trời(Hy) Hin hạn Ấn độ đứng giữa như cán cân(mã) thiên bình. Ngọn núi đó là chỗ tiếp giáp(hàn nối) 2 cực Đông Tây, (lạp) 2 đầu là 2 đĩa cân Hy lạp và Malaysia(?)
(4)Zeus là thần mặt trời thứ III tượng cho vùng đất Hy lạp. Bạn đọc có thể thấy thêm con số III sinh hành Mộc trong tên Con ngựa(gỗ) thành Troy(Pháp trois, Anh tri).
(5)Fridrich Günter, einponisch Maler, Berlin August/1970.
Đổng Thiên Vương trang 35
Trước hết chúng tôi xác định phương hướng. “Đấng Thánh nhân quay mặt về phương Nam mà trị vì thiên hạ”(1). Vị vua Ai cập nhìn về phương Nam vì bên trái Đông có cái đầu của duck, con vịt(2). Đông đối Tây, bên phải Tây ông ta ôm 1 cái đu(móc). Hẳn bạn đọc còn nhớ cây đu của Hán cao tổ Trung hoa móc lên Du Hin hạn Ấn độ. Du của vị vua này cũng vậy, hướng móc lên cái đầu. Trên đầu vị vua, giữa trán ông ta là hình vẽtượng cho 2 nửa âm dương 1 thái cực. Nửa trái Đông bỏ ngỏ tượng cho Ai cập(?) Nửa phải Tây là bộ râu Pitago. Bạn đọc xem tiếp cáimiện mũ đội đầu Pharaon, trên đó là những họa tiết tâm điểm(3). Đội đầu hình vật người đàn bà, tâm điểm, lại có cái đu móc lên. Cái gọi là vua Ai cập II tôn thờ tư tưởng bản thể vũ trụ khởi phát từ duy nhất Ấn độ của triết giatagore.
Ông Guillaume nghi ngờ cái áo của Pharaon là đúng. Ông nói Ấn độ không có kiểu áo này. Chỉ người Trung hoa, Ai cập và người 1 đôi vùng đất tiếp theo mới có. Như cái váy trên người vua Ai cập là áo(4). Tác giả bức điêu khắc Pharaon II lấy ý từ chữáo, nghĩa là 4 phương Đông Tây Nam Bắc đất có thể dùng(5).
Chú thích:
(1)Câu này của Lão Đam tức Lão Tử, Lý Nhĩ.
(2)Bạn đọc có thể thấy cái đầu con vịt ngay dưới góc trái phương Đông nam bức họa triết học Tỳ thấp nô. Dưới đối trên, trên là con ngỗng Kim Hindu và mặt trăng, sông Hằng.
(3)Bạn đọc có thể thấy họa tiếttâm điểm ở bức họa Bàlamôn. Một trong 5 bà dùng ngón tay trỏ vẽ vào giữa khoảng không bên phải Tây(bên trái người xem ảnh) 1 đường tròn rồi dừng lại ở giữa.
(4)Ở bộ quynhđất xa ngoài cõi nước. “Đất xa” lân cận Ấn độ, “cõi nước” Ấn độ(?)
(5)Áo nghĩa thưlà sách bàn những vùng đất lân cận Ấn độ. Bạn đọc có thể thấy nghĩa lý đó ở cái áo lông ngỗng của Mỵ Châu chuyện An Dương Vương và tình tiết cuối cùng chuyện Đổng Thiên Vương Lĩnh Nam chích quái: “Cậu bé ruổi ngựa đến cây đa núi Vệ Linh cởi áo để lại lên mây đi mất”.
Đổng Thiên Vương trang 36
Ông Grevin không đồng ý kết luận giới tính Pharaon của Guillau. Ông cho rằng hình nhân kia là 1 bé trai chưa có thói quen đi giày như người lớn. Rồi Grevin chứng minh. Gần góc dưới phương Đông nam Pharaon lờ mờ 1 đôi giày cao cổ đang chờ tuổi vị thành niên của cậu. Tuy nhiên Grevin phân vân, đôi giày kia quá to so với cơ thể nhỏ con chưa chắc cậu bé là chủ nhân. Ai là chủ nhân đôi giày? Người Trung hoa? Không phải, tục của họ là dép cỏ(1). Người Ai cập? Cũng không! Người xứ sở aibụi, gió thổi cát bay này tục của họ là chân đất. Vậy người Ấn độ do phương vị quốc gia này bên trái Ai cập? Có lẽ! Chỉ có người Ấn độ mới có tục đi giày như “ngày xửa ngày xưa” trong chuyện cổ tích “Đôi giày ngàn dặm” xứ nọ. Do dự, mắt Grevin lơ đãng vào khoảng trống bức điêu khắc. Trên cái rãnh ngăn cách giữa Pharaon và đôi giày là hình hài 1 con nhộng bị cắt rời làm đôi. Nửa già bên trái, nửa non bên phải dính vào đùi Pharaon. Ông thốt lên: contằm.
Ông Alaiin đồng ý với sơ cứu của 2 người tiền nhiệm Guillaume và Grevin. Alaiin bàn thêm khoảng giới hạn giữa đôi bàn chân Pharaon và đôi giày siêu hình. Ông lấy tượng con tằm dẫn nhập: “Con tằm nhả tơ”. Lớp tơ lụa trên thân Pharaon và toàn bộ bức điêu khắc là sự phản ánh của tằm. Rồi Alaiin chỉ vào đôi bàn chân trần vua Ai Cập. Giữa ngón lớn và ngón nhỏ nổi lên 2 đường gân. Ông nói 2 đường gân là giới hạn giữa cáiche trùm (ngón cái) và thầnthứ(ngón nhỏ). Tiếp theo Alaiin so đọ, đôi bàn chân Pharaon nhỏ, thấp hơn đôi giày. Ông giả thiết: Nếu siêu hình là đặc thù của triết học Ấn độ thì Pharaon tượng cho người Ai cập, con tằm và đôi giày tượng cho người Indo.
Trên là khảo cứu Pharaon của 3 nhà khảo cổ Pháp trong nhiều nhóm người Pháp đến Ai cập vào những năm trước chiến tranh Thế giới lần thứ nhất(2).
Chú thích:
(1)Dép dưới chân, chân dưới đầu. Ai cập phương cao Tây bắc, Trung hoa vị thấp Đông nam, quẻThiên trạch Lý (dép) vị Đông Nam trong viên đồ 64 quẻ kép của người Trung hoa từ tính triết học này.
(2)Jean Arras, Ilya seulement les Arbres, Les cahiers du Musée de Louvre Paris November 1957.
Đổng Thiên Vương trang 37
Thưa bạn đọc! Chúng tôi vẫn đang bàn về “sông Hà” Kinh dịch. Lưỡng hàlà đôi Thiên hà, 2 sông (chu) trên Trời.
Khoảng thời gian người Pháp đến Ai cập thì người Anh, Đức…cũng có mặt tại nước này. Không riêng người Pháp, các nhà khoa học châu Âu muốn khám phá vùng đất gọi Trời trong cặp “Song Thiên” của nhân loại. Indo Ấn độ là tâm điểm khởi phát sự sống trên trái đất thì đã rõ(1). Nhưng không hiểu sao họ phải “né”, tránh conNgài mà “kén”, chọn Ai cập.
Đất người Hán Trung hoa là chi nhánh thứ nhất của ĐộThổ bật sang Đông. Còn Ai cập, có chắc độc lập sinh ra, không dính líu tới Ấn độ như cách luận của người Nhị nguyên? Hay cũng là 1 nửa con nhộng tằm; Như cái mầm đậu, đỗ, ĐộThổ phình lên Tây theo cách luận của người Nhất nguyên? Giả thiết và chứng minh. Các nhà khoa học phải khảo sát kỹ lưỡng các hiện vật như Tượng nhân sư, Kim tự tháp…Khai quật các hầm mộ vua Ai cập, xác định niên đại xác ướp Pharaon…Giải mã các truyền thuyết lịch sử như Thần Ra-Atum(2)…Tổ chức nhiều cuộc thám hiểm dài ngày con sông Nin huyền thoại…Cuối cùng tất cả họ cũng ngồi lại trước bức điêu khắc Pharaon II.
Chú thích:
(1)Từ trái sang phải người xem hình: Pharaon II, Kim tự tháp và tượng Nhân sư, Quán âm bồ tát(tức Nam mô a di đà Phật). Như họa tiếttrên miện mũ Pharaon, bạn đọc có thể thấy họa tiết tâm điểm trên đầu Quán âm bồ tát.
(2)Thần Ra-Atum. Thần Ra là Mặt trời thứ II. Atum. A là chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái hệ Latinh. Tum tiếng Anh là đùa 1 tý. Thần Ra-Atum: Đùa 1 tý thôi, Ai cập chỉ là vùng đất thứ II sau Ấn độ.
Đổng Thiên Vương trang 38
Vào luận bàn “sư nói sư phải vãi nói vãi hay”. Nhiều ý kiến trái nhau nhưng rốt cuộc vẫn quy tụ: Cái gọi vua Ai cập này chỉ 1 trong nhứng bức điêu khắc thuộc phái Siêu thực của Hội Họa. Người Pháp, ông Froissart với nhóm cộng sự của mình khai cuộc. Ông nói: Siêu thực. Siêu là không chịu đặt mình vào khuôn mẫu nào, vượt qua bầy đàn, hơn hẳn các bậc. Siêu là xa như viễn xứ, miền đất xa xôi. Mờ ảo khó nhìn thấy cũng là siêu như siêu hình, hình hài khó nắm bắt.
Nói rồi ông Froissart bỏ phần thực hình nhân vua Ai cập. Vượt qua khoảng ngăn cách ngay má ngoài chân trái Pharaon (góc dưới bên trái phương Đông Nam bức điêu khắc)(1) bàn tiếp phần siêu, mảng quyết định chủ đề tác phẩm. Trước khi vào chi tiết ông Froissart giới thiệu sơ lược các họa tiết.
Bên phải cái ghế bị cắt bỏ vai chế từ thân một loài cây không có người ngồi, dưới cùng nó là 1 đôi giày cao cổ. Tiếp lên là hàm 1 con rồng cái, miệng nhả ra cái đầu và cổ 1 con nhân xà. Lên nữa là đầu 1 con nhện không có thân và tiếp lên nữa, trên mặt ghế là già nửa 1 con nhộng tằm. Mặt trái phần trên ghế là những họa tiết được cách điệu từ những họa tiết đền Vàng Indo. Toàn bộ cái ghế như vương tơ 1 loài côn trùngnhện(2).
Chú thích:
(1)”Đấng Thánh nhân quay mặt về phương Nam trị vì thiên hạ”_Lão Tử. Vua Ai cập nhìn về phương Nam.
(2)Nhện là 1 trong những loài trùng có sớm nhất trên trái đất. Tục dùng cành cây (chi, mộc) rào chắn trong 3 ngày yểm không cho Trùng bắt mang đi ở phong tục mai táng của người phương Đông như Trung hoa, Việt nam, Triều tiên… từ trùng, con nhện này.
Đổng Thiên Vương trang 39
Nét chấm phá chân dung vua Ai cập của người xứ Bordeaux vừa dừng lại ở con nhện thì…Như trong sương mù, người Anh vào cuộc. Bà Housman cùng cộng sự vén bức màn bí mật bức điêu khắc Pharaon II (1). Bắt đầu từ cái đu Housman nói: Tay phải vua Ai cập ôm cái đu, tay trái ông ta nắm chặt cái đốc kiếm. Thanh kiếm không có lưỡi, nó ở đâu? Lưỡi kiếm vô hình nằm ngang trên cái ghế mảng siêu hình bức điêu khắc! Nói rồi bà hướng cử tọa vào chữhựu trên áo Pharaon mà rằng: Có 1 đường cong như 1 nửa cái chén kết hợp với chữ hựu tạo thành Ω(2). Họa tiết ômega được chia làm 2, nửa non chữ hựu ở dưới, nửa già 1 nửa cái chén ở trên. Toàn bộ là cái chén úp xuống(3). Bà Housman còn nói thêm: Họa tiếttượng cho IndoEuropean, 1 loại ngôn ngữ kết hợp giữa tiếng Ấn độ và tiếng Châu âu. Muốn khảo cứu các Pharaon Ai cập, ngoài ký – ký hiệu và tự – chữ viết thông dụng cần phải có loại ngôn ngữ này.
Chú thích:
(1)Bạn đọc có thể nhận diện con số II ở họa tiết giống 2 cái chén úp và 2 chữ Ω ômega ngay bên trái 1 Pharaon Ai cập(ảnh 2).
(2)Ω là chữ cái cuối cùng trong bảng chữ cái Hy lạp, bạn đọc có thể nhận diện nó ở trên đầu 2 nhân vật trong bức họa Asin và cha Sam(ảnh 3).
(3)Phúc uyển là cái chén úp. Ai cập vị Tây Bắc, Trung hoa vị Đông Nam. Quẻ cấn phúc uyển Tiên thiên bát quái Kinh dịch người Trung hoa xếp vị Tây Bắc từ cái chén úp này(ảnh 4).
Đổng Thiên Vương trang 40
Nhóm các nhà khảo cổ người Anh đến Ai cập lần này có bà Ingerid nguyên là nhà Văn học sử, chủ bút 1 tờ báo ở NewDelhi. Thời gian sống ở Indo, Ingerid luôn tìm hiểu Văn hóa nước này. Bà rất phân tâm về tục thờ cúng của người bản địa. Ingerid nói: Người Ấn độ thờ Vàng thì có thể vì Vàng là loài Kim vững bền nhất trong nhóm Ngũ kim Vàng, bạc, đồng, sắt, kẽm. Thờ Hymen hình vật trinh nữ cũng có thể vì cô gái tơ non kia sẽ là người Mẹ để cho người Á, Hán, China “một lòng thờ Mẹ kính cha” và người Âu, Hy Lạp, Dorian(1) tôn trọng Dame đàn bà. Nhưng người Indo thờ các con số thì không thể bởi cũng vô tình như số La mã người ta đều tai nghe mắt thấy chúng.
Nói liền 1 mạch như những thiên Epic Anh hùng ca Hy lạp, đột nhiên bà Ingerid…dừng lại chỉ vào 1 hình vẽ chi chít những con số rồi tiếp tục: Đây là HàĐồ của người Trung hoa, họ đồ họa lại các con số sông Thượng giới(2). Đồ hình gồm 10 con số nhỏ. Những con số lẻ gọi là cơ, dương, số Trời. Gọi Trời do Trời thuộc dương. Những con số chẵn gọi là ngẫu, âm, số Đất. Gọi Đất do Đất thuộc âm. Nếu dùng phép Diễn số thì tổng các số Trời 1+3+5+7+9=25. Tổng các số đất 2+4+6+8+10=30. 30 là con số Đất mà người Ấn độ thờ phụng. Nói rồi bà Ingerid chỉ lên bức họa biểu tượng quốc gia Indo: Kia là con số 30, trên con số 30 là 1 nửa con mắt ngỗng Hằng nga. Con số 30, số 3 trước, sau nó là con số 0 được cách điệu thành 1 Masterkey(3) chìa khóa cái cả…Bà Ingerid ngừng lời rồi cũng rất đột nhiên bà cao giọng: Người Indo dùngâm (nhạc, văn) vàsắc (màu, sắc tướng) để diễn đạt những tư tưởng triết học. Cần phải có loại “chìa” này để mở nắp “Áo quan” cho các Pharaon Ai cập(4).
Chú thích:
(1)Có 1 thời kỳ lịch sử, quốc gia Hy lạp mang cái tên như vậy. Dorian: thuộc về Dô và Re.
(2)Đời Tống Trung hoa có Trần Đoàn nghiên cứu Lý số. Số là những con số đếm. Lýtử lý, quê cha đất tổ. Lý số là con số của quê cha đất tổ.
(3)Bạn đọc sẽ rất khó khăn để nhận diện Cái chìa khóaở 1 họa tiết dưới góc trái bức điêu khắc vua Ai cập(ảnh 4). Rất dễ dàng với những chìa khóa minor thứ ở tay phải Thần Re và tay 2 cô gái trên bức họa trong hầm mộ 1 Pharaon(hình 3).
(4)Nguyên văn: “Indian people use Music, poems and Songs to show their Philosophic indeologi”. Dubline Ingerid, talks outside page, HongKong June 1893.
Lịch
H | B | T | N | S | B | C |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | ||||||
2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 |
23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 |
30 | 31 |