Phần 2 – Đổng Thiên Vương

Đổng Thiên Vương trang 17

Chuyện Thánh Gióng trong Tân đính Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh là Đổng Thiên Vương. Chúng tôi nghĩ một nhà Nho nào đó sau khi đọc Thúc Hốt Hỗn Độn của Trang Tử thông lý với Đổng Thiên Vương: Nguyên nhân bế tắc “manh tâm” giữa Trung ương Thổ do hành Hỏa phương Nam chưa có số 7 thành. Bạn đọc xem hình B.

Hai hành Thủy Hỏa Bắc Nam tượng cho 2 chiếc gióng một đôi quang gánh. Số 5 sinh Thổ tượng cho người gánh đứng giữa. Khi 2 đầu gióng bằng nhau thì người gánh không chung chiêng nghiêng ngả. Tác giả tít Thánh Gióng có lẽ người miền Trung nên quang người miền Bắc cụ gọi là gióng, Thánh Gióng.

Thưa bạn đọc! Như đã nói ở trên, chúng tôi cho rằng chuyện Đổng Thiên Vương dựa và phát triển theo chuyện Thúc, Hốt, Hỗn Độn của Trang Tử. (Nam Hoa Kinh viết theo lối “chương”, Lĩnh Nam chích quái viết theo lối “hồi”. “Hồi” ngoài nghĩa “lối” của văn còn là “trở lại”, trở lại vấn đề trước đó)Thông lệ, dựa vào phát kiến người khác để thành của mình thì cốt chuyện sẽ thay đổi, các tình tiết ắt có gia giảm. Bởi vậy phần nhập đề trang 80 hồi 6 chuyện Đổng Thiên Vương chúng tôi sẽ bàn kỹ. Trước khi vào chuyện, mời bạn đọc chú ý 2 vấn đề liên quan:

1-  Hình vẽ: Tất cả các hình vẽ từ xưa đến nay đều hình dung thẳng đứng từ trên xuống, lấy 4 phương chính Đông Tây Nam Bắc tượng trưng. Nên mục I chuyện Thánh Gióng chúng tôi vẽ đúng phương vị của Cổ nhân ngoại trừ một hai hình. Dịch có câu “lý Ngũ hành, Văn bát quái”. Nghĩa Ngũ hành là phần thực(triết học) còn bát quái phần văn(diễn đạt). Chúng ta thấy rất rõ ở Hậu Thiên bát quái quẻ Kiền Trời xếp phương Tây Bắc. Quẻ Tốn(tốn còn là khiêm nhường chỉ Thổ hữu hình) xếp phương Đông Nam. Ý Chu Văn Vương là: Hành Thủy sinh tại Tây Bắc(không phải chính Bắc). Hành Hỏa sinh tại Đông Nam(không phải chính Nam) như hình vẽ trong các sách Dịch.

Đổng Thiên Vương trang 18

2-  Các con số:

*Số 1 nguyên là số sinh của hành Thủy, số khởi, nếu cộng với số 2 thành số 3.

*Số 2 nguyên là số sinh của hành Hỏa, số khởi, nếu cộng với số 1 thành số 3.

*Số 3 nguyên là số sinh của hành Mộc gồm số 1 lẻ, cơ, Dương cộng với số 2 chẵn, ngẫu, âm đủ “nhất âm, nhất dương”. Kinh Dịch nói Trời tròn, đường kính bằng 1 thì chu vi bằng 3. Số 3 thực là số Trời tượng là Dương trẻ; Được ứng dụng nhiều trong văn hoá như “tam cấp”, “ba thước Đất”, “tam tộc”, “nhất và nhị”, “đơn và kép”. “Biết 1 mà chưa biết 2” là câu các nhà Nho chê bai nhau, tức mới biết ý thứ nhất chưa biết ý thứ 2 coi như không biết…

*Số 4 nguyên là số sinh của hành Kim gồm 2 con số 2 cộng lại(hai lần âm số). Kinh Dịch nói đất vuông, đường kính bằng 1 thì chu vi bằng 4. Số 4 thực là số Đất.

*Số 5 nguyên số sinh của hành Thổ, là lẻ, cơ, dương, ngôi cao nhất trong 5 số sinh của Ngũ hành. Là số lớn, đại trong 10 số Hà đồ và 9 số Lạc thư. Cùng với số 9 Dương già tạo thành cặp từ “cửu ngũ” dùng cho hào 5 ngôi chí tôn quẻ kép.

*Số 6 nguyên số thành của hành Thủy, tượng là Âm già(Lão âm).

*Số 7 nguyên số thành của hành Hỏa. Hỏa tứckhí, Hỏa thành thì biến thành dạng khí mà thượng vân. Bởi vậy số 7 gọi là thất.Thất là mất, lỗi, bỏ qua. Tục cây nêu ngày tết 7 ngày, chuyện Phật đuổi Quỷ ra biển 7 dặm từ con số 7 thất này.
*Số 8 nguyên là số thành của hành Mộc. Là chẵn, ngẫu, âm, lớn nhất trong 5 số chẵn Hà đồ và Lạc thư(số 10 nhỏ hơn số 8 vì diễn số 10: 1+0=1). Số 8 gồm 2 con số 4 đất cộng lại, được gọi là số Thái âm, Âm thông suốt(chữ Bát phường Bát âm từ con số 8 này).
*Số 9 nguyên là số thành của hành Kim phương Tây gồm 3 số lẻ, cơ, Dương 1, 3, 5 cộng lại. Chuyện Tiên Dung và Chử Đồng Tử hổi 3, chuyện Thục An Dương Vương hồi 13… Lĩnh Nam chích quái viết theo tư tưởng các con số triết học này. Bạn đọc xem hình 1B.

“An Dương Vương dòng dõi Ba Thục”. Số 3 sinh Mộc bên trái Đông. Thục là chín, đun chín đồng âm với âm 9, số thành Kim bên phải Tây: An Dương Vương vốn là con số 9 Hà đồ.

“Thục thua chạy mãi về phương Nam”: Thục, con số 9 thành Kim Hà đồ chuyển về Nam làm con số 9 Sơn Lạc thư. An Dương Vương thua Tần vì “Bọn Tần bèn làm 5 con trâu đá”: số 5 sinh Thổ giữa.

Đổng Thiên Vương trang 19

Vẫn con số 9. Theo tham Thiên của Chu Hy, số 9 bằng 3 lần con số 3 : 3 x 3= 9. Vì là lẻ, cơ, dương và ở ngôi cao nhất trong  10 số Hà đồ và 9 số Lạc thư, tượng Dương già nên nói số 9 là thành đạt. Phương Đông hữu hình, phương Tây vô hình. Gặp con số 9 Hà đồ phương Tây người xưa thường nói thác đi như “Tứ xuyên” không nói Cửu xuyên. “Kim sơn” không nói Cửu sơn. “Thục xuyên”…Tục không nhắc tới người đã mất(tức khuất núi) dựa vào tính triết học vô hình bên phải phương Tây từ con số 9 Hà đồ thành Kim này.

Lại con số 9 thành Kim. Vì phương Đông hữu hình nên ở Lạc thư người ta dùng thẳng như Cửu long, Cửu khiếu, Cửu tộc, Cửu tuyền, (tuyền là tòan vẹn)ngày 9 tháng 9(Trùng Cửu…).

*Cuồi cùng nhưng lại bắt đầu là con số 10 thành hành Thổ. Nói bắt đầu vì diễn số 10: 1+0=1, số khởi.

Phépdiễn số được ứng dụng rộng rãi trong văn hóa dân gian. Ví như chê một người đàn bà nào đó nhà Nho nọ có câu: “Vô duyên chưa nói đã cười, cười chi mà lại hở 10 cái răng”. Hai hàm răng đâu chỉ 10 cái, diễn số chăng? Nhà Nho này như khẳng định con số 10 là diễn số: “Đi nhai đứng ngậm ngồi cười, vô phúc vô đời mọc 1 cái răng”. Hoặc con số 100 bách với 1 cái bọc, bao, bào trong chuyện Âu Cơ và Lạc Long Quân. 100 là tổng của các số 55 Hà đồ và 45 Lạc thư đủ Hà Lạc, Bắc Nam thể nguyên và dụng. Tưởng số lớn nhưng diễn ra lại nhỏ 100: 1+0+0=1 là số khởi. 100 bách là chẵn, ngẫu, âm số đúng lý phải cho ra con gái vì đàn bà thuộc âm. Nhưng lại nở ra 100 chàng trai do diễn thành 1 lẻ, cơ, dương số(đàn ông thuộc dương). Một nửa 100 bách là 50(50 là số đại diễn, nhỏ nhưng diễn ra lớn 50: 5+0=số 5 đại). 50 theo Âu Cơ lên rừng phương Tây Bắc nơi “Thiên nhất sinh Thủy”. 50 theo Lạc Long Quân xuống biển phương Đông Nam nơi “Địa nhị sinh Hỏa”. Vũ trụ trong chuyện Âu Cơ và Lạc Long Quân là 1 thái cực mới có 2 nghi Âm Dương với 2 hành Thủy Hỏa. Mỗi nghi, mỗi hành nhận 1 số 50 đại diễn(tức số 5 đại) của con số 100 bách(tức số 1 khởi). Số 100, chữ báchgồm chữ bạch, bạch là màu trắng, trắng rõ, không có gì cả ở dưới, chữ nhất là số 1 khởi ở trên. Chuyện đẻ trăm trứng, Rồng bạch trong Lĩnh Nam chích quái sáng tác trên ý tưởng 1 thái cực từ con số 100 bách này. Chúng tôi sẽ tiếp tục bàn ở hồi I, hồi II, thêm cái gọi là dân tộc Bách Việt Lịch sử nước Việt.

Đổng Thiên Vương trang 20

Bạn đọc cùng chúng tôi giở trang 80 Tân đính Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh. Hồi 6 “Các bô lão đến sân rồng cấp báo, Đổng Thiên Vương vây đánh giặc ân”.
Đề chuyện gồm 2 câu, mỗi câu 8 chữ thểBiền ngẫu dùng cho văn chương thi cử ngày xưa. Thể văn Nôm này rất khó là phải bàn được ý thứ 2. Muốn vậy, thí sinh phải biết xuất xứ đề. Các nhà Nho ở Hà tĩnh truyền kể Nguyễn Du(tác giả Truyện Kiều sau này) thi cử gặp phải thể Biền ngẫu chuyện Cao Biền và Tô Lịch: “Cậy thế đô hộ Cao Biền yểm trấn, sẵn tính anh linh Tô Lịch phá tan” ở cuốn Lĩnh Nam… Nhưng không phải Lĩnh Nam chích quái mà là Lĩnh Nam trích quái lục(?) Cụ bị liệt điểm. Nghe nói 3 năm sau Nguyễn Du trở lại Kinh kỳ để thi tiếp thì được miễn thí. (1)Giờ, 2 câu đề chuyện Đổng Thiên Vương chúng tôi sẽ bàn trước 2 chữ đó là “cấp” và “các” câu nhất.

Chuyện Thúc Hốt Hỗn Độn Nam Hoa Kinh. Con số 5 sinh của hành Thổ giữa Trung ương Trang Tử “văn hóa” bằng nhân vật Hỗn Độn, Tỳ(lá lách), tạng thứ 5 Ngũ tạng của Người. Chuyện Đổng Thiên Vương  cũng vậy.

“Cấp báo”. Cấplà bệnh cấp hạ tức rối loạn tiêu hóa. Có 2 chứng: Chứng thứ nhất táo bón do dạ dày thực nhiệt; Chứng thứ 2 ỉa chảy do dạ dày hư hàn. “Cấp” đây chứng thứ 2. Bạn đọc xem dòng 16 trang 81: “Thư(2) cấp báo ngày mấy lần” và dòng 15 trang 80: “Phương sỹ Phàn a”. Phương sỹlà Thầy thuốc. Phàn a. Alà ỉa chảy. Phànphèn như bạch phàn, 1 phương dược Đông Tây y dùng chữa chứng ỉa chảy. Ta thấy số 5 sinh Thổ Trang Tử ví Tỳ(lá lách) do vận hóa kém phải dùng phép chữa kiện. Chuyện Đổng Thiên Vương ví Vị(dạ dày) do ỉa chảy phải dùng phép cấm cố, thu liễm. Tỳ và Vị cả 2 đều thuộc Thổ ứng giữa Trung ương. (3)Bạn đọc xem hình 2B.

Chú thích: (1)Chúng tôi sẽ chép lại đáp án của Nguyễn Du cuối phần này.
(2)Thưđất lầy,bại hoại.
(3)Tuy Tỳ và Vị đều thuộc Thổ nhưng Tỳ thuộc Ngũ tạng. Ngũ tạng thuộc Dương(trước), Trang Tử ví với số 5 sinh Thổ là đúng. Nhưng Vị thuộc Lục phủ, Lục phủ thuộc Âm(sau). Sinh thuộc Dương, thành thuộc Âm. Vị ứng với số 10 thành Thổ, Đổng Thiên Vương ví vậy là gượng ép.

Đổng Thiên Vương trang 21

Các bô lão đến sân rồng cấp báo”…Cáclà cái ao, cái hộc, cái đấu dùng để đo cho bằng. Chữ này trong dân gian vẫn còn như mỗi khi nhận đồ vật người ta thường bảo nhau phải “ao lại”, tức phải đo lại cho bằng đúng. Hành Hỏa phương Nam sinh sau là vật thứ 2 đo bằng hành Thủy sinh trước vật thứ nhất. Bạn đọc xem chương I Tiêu dao du Nam Hoa Kinh. Đây là chương Trang Tử bàn về số 1 sinh của hành Thủy khởi đầu vũ trụ. “Bể Bắc có loài cá, tên nó là côn…hóa mà làm loài chim, tên nó bằng…”

Cá thuộc âm, Thủy thuộc âm nên ví cá(cá còn đọc cả, nghĩa Bắc với hành Thủy chỉ là phương lớn, hành lớn). Chim thuộc dương. (1)Là lẻ, cơ, dương số nên số 1 sinh Thủy tác giả ví chim, Chim bằng.

Trong tự nhiên có loài chim lớn thế không mà dòng 5 trang 29 nói: “…Cánh của nó như đám mây rũ ngang trời. Loài chim ấy bể động thì dời sang bể Nam…”Dòng 9: “đi 6 tháng mới nghỉ”. Bạn đọc xem hình 3B. Hà đồ là vòng quay của 1 năm: Đông sinh Xuân, Xuân sinh Hạ, Hạ sinh trưởng Hạ, trưởng Hạ sinh Thu, Thu sinh Đông.Từ Bắc sang Nam tức từ Đông sang Hè nửa năm, 6 tháng. Chim bằng là số 1 sinh của hành Thủy!

Chú thích:
(1)
Dương có tính thượng thăng (âm có tính hạ giáng) mà lên với người Thiên cổ. Gà thuộc bộ điểu, chim. Tục cúng gà trống non chưa đạp mái tức thuần dương (số 1 sinh của hành Thủy thuần dương, chưa phối ngẫu với âm số 6 thành) từ tính triết học này.

Đổng Thiên Vương trang 22

“Chim bằng”. Bằng từ thành ngữ “bằng ngang phải lứa”. Bằng, bình, biền nhưThủy bình, nước bằng phẳng. Nghĩa là hành Thủy tuy sinh trước nhưng cũng chỉ ngang bằng với 4 hành Kim, Mộc, Hỏa, Thổ còn lại. Triết lý này Trang Tử đã khẳng định ở chương II Tề vật luận: 5 vật Kim Tây số 4, Mộc Đông số 3, Thủy Bắc số 1, Hỏa Nam số 2 và Thổ Trung ương số 5 đều bằng nhau. Trong 5 hành Ngũ hành thì 2 hành Thủy Hỏa quan trọng nhất cho sự sinh hóa vạn vật. Chúng như 2 cái “các”, ao đo nhau. Bạn đọc xem dòng 6 trang 29: “…Bể nam là ao Trời…” và dòng 15, 16 trang 30 “…phía Bắc miền hiếm cây…” có bể thẳm tức ao Trời(1)…” Đáp ý “bằng”, “ao” của Trang Tử, tác giả chuyện Đổng Thiên Vương thuận lý dùng “các” cho đề chuyện “Các bô lão đến sân rồng cấp báo, Đổng Thiên Vương vây đánh bại giặc Ân”. Chúng tôi tiếp tục:

“Hồi 6”… “Thời (thì) Hùng Vương ngành(nhánh, chi) thứ 6”. Đúp số 6. Sơ ý lặp tự chăng? Không phải! Đây là phép xướng đề. Mục đích hướng người đọc vào vấn đề tác phẩm (như số VII, 7 khiếu, 7 ngày chuyện Thúc Hốt, Hỗn Độn của Trang Tử). Bạn đọc xem hình 4B. Trong hình, 6 là số thành hành Thủy. Lặp con số 6 nghĩa là khi hành Thủy phương Bắc bắt đầu vào giai đoạn thành 6 thì hiện tượng gì sẽ xảy ra với 4 hành Kim, Mộc, Hỏa, Thổ vẫn ở giai đoạn sinh. Trực tiếp là Hỏa vì Thủy khắc Hỏa và Thổ vì Thổ khắc Thủy. Chúng ta dễ nhận phép xướng đề ở “Hồi 1 họ Hồng bàng đầu tiên, đầu tiên là số 1. Hồi 2 thời Hùng Vương ngành thứ 2 chuyện Lạc Long Quân diệt Ngư tinh. Hồi 3 thời Hùng Vương ngành thứ 3 chuyện Tiên Dung và Chử Đồng Tử, đầm(đoài). Hồi 4 thời Hùng Vương ngành thứ tư chuyện trầu cau anh em Tân Lang. Hồi 5 thời Hùng Vương ngành thứ 5 chuyện dưa hấu An Tiêm. Hồi 7 thời Hùng Vương ngành thứ 7 chuyện cáo 9 đuôi. Hồi 8 thời Hùng Vương ngành thứ 8 chuyện Quỷ Xương Cuồng. Hồi 9 thời Hùng Vương ngành thứ 9 chuyện Lang Liêu và bánh trưng…”

Chú thích:

(1)Đọc thì ao là hồ. Chữ hồ 2 tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc Trung quốc từ “các” ao này.

Đổng Thiên Vương trang 23

Chúng tôi tạm dừng 2 chữ “cấp” và “các” đề chuyện Đổng Thiên Vương để cụ thể thêm đôi điều về Hà đồ Kinh dịch.Bạn xem hình 5B. Trên hình là 10 con số sinh và thành của 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Số sinh là số to đậm, số thành là số nhỏ mảnh.

Sinh và thành của Ngũ hành không phải diễn ra cùng 1 lúc mà thứ tự lần lượt nhưng thúc hốtchớp nhoáng rất nhanh. Giai đoạn sinh thì Thủy Bắc số 1, Hỏa Nam số 2, Mộc Đông số 3, Kim Tây số 4 và cuối giai đoạn sinh là số 5 Thổ giữa Trung ương.

Giai đoạn thành của Ngũ hành cũng bắt đầu từ Thủy. Thủy Bắc số 6, Hỏa Nam số 7, Mộc Đông số 8, Kim Tây số 9 và cuối giai đoạn thành là Thổ số 10 thập toàn. Do 1 sinh 1 thành công dụng nên Hà đồ Kinh dịch gọi gộp số sinh và thành của từng hành lại với nhau. Như về hành Thủy “Trời lấy số 1 mà sinh hành Thủy, Đất lấy số 6 mà làm cho thành Thủy”. Về hành Hỏa “Đất lấy số 2 mà sinh hành Hỏa, Trời lấy số 7 mà làm cho thành Hỏa”. Hành Mộc “Trời lấy số 3 mà sinh hành Mộc, Đất lấy số 8 mà làm cho thành Mộc”. Hành Kim “Đất lấy số 4 mà sinh hành Kim, Trời lấy số 9 mà làm cho thành Kim” và hành Thổ “Trời lấy số 5 mà sinh hành Thổ, Đất lấy số 10 mà làm cho thành Thổ”(1).

Chú thích:
(1a)Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục thành Thủy. Địa nhị sinh Hỏa, Thiên thất thành Hỏa. Thiên tam sinh Mộc, Địa bát thành Mộc. Địa tứ sinh Kim, Thiên cửu thành Kim. Thiên Ngũ sinh Thổ, Địa thập thành Thổ. Đây là cách nói của Thiệu Khang Tiết Mai hoa dịch.
(1b)Số thứ tự của 10 Can(can chi): Giáp số 1, Ất số 2, Bính số 3, Đinh số 4, Mậu số 5, Kỷ số 6, Canh số 7, Tân số 8, Nhâm số 9, Quý số 10. Chúng được xếp theo từng cặp 1 số sinh 1 số thành của Ngũ hành. Do vậy tuổi người đứng ở hàng can Giáp hợp với năm, tháng, ngày, giờ và với tuổi người có hàng can Kỷ(số 1 hợp số 6, Giáp hợp Kỷ). Tuổi người đứng ở hàng can Ất hợp với năm, tháng, ngày, giờ và với tuổi người có hàng can Canh(số 2 hợp số 7, Ất hợp Canh). Tương tự Bính hợp Tân(số 3 và số 8). Đinh hợp Nhâm(số 4 và số 9). Mậu hợp Quý(số 5 và số 10).

Đổng Thiên Vương trang 24

Chu dịch là bộ sách chiêm phệ cổ đại…có quan hệ mật thiết tới triết học, tôn giáo, phong tục dân tộc…”(Thiệu Khang Tiết, Thiệu ung-Mai hoa dịch)

Trong cuốn Kinh dịch đạo Người quân tử, tác giả Nguyễn Hiến Lê nói rằng Tây như người Đức có Jung “là 1 trong những thủy tổ Phân tâm học…chuyên nghiên cứu tiềm thức con người”. (1)Jung bắt chước Thiệu ung bói việc trên 64 quẻ kép.

Chú thích:(1)Phân tâm mà là tiềm thức ư? Jung (tính từ trẻ) với phân tâm chúng tôi không biết. Nhưng…Frerd là bác sỹ thần kinh Đức với Phân tâm, môn khoa học về “Tâm không chủ định”. Chúng tôi biết ông còn sang cả phương Đông với Ngũ hành, 1 học thuyết quyết định cho cái tên “Văn minh sông Hằng”. Bạn đọc xem hình . Đây là biểu trưng nước Đức Deutschland những năm 1930 và cũng là hình trên ngực Phật khi giáng thế. Nhà chùa nói rằng đó là chữ Vạn. Theo cố Nhà sư Thiều Chửu thì tiếng Phạn và Hán tự không có chữ nào như vậy cả. Kia là hình tướng chứ không phải chữ. Là hình tướng, chúng tôi nói hình tướng Ngũ hành. Gốc hình này là 1 dấu cộng giống chữ Hán + thập tượng cho 4 phương chính Đông, Tây, Nam, Bắc. 4 đầu dấu cộng đính với 4 vạch ngắn như 4 cái đuôi để diễn đạt hình khi quay. Nếu quay theo chiều thuận thì cái đuôi đi sau. Người cổ Ấn độ giải thích thế giới bằng thuyết Ngũ hành của họ cho rằng: Vũ trụ được sinh ra bởi 5 thứ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Bạn đọc xem 2 hình 6B. “Đạo Trời quay từ trái sang phải”. Hình 6Ba là tướng Ngũ hành biểu trưng cho Trời, Phật, những khái niệm gọi Đấng tối cao. Như đã nói, Frerd rất tâm đồng với Ngũ hành. Nhưng đâu biết đã  mớm văn cho Hittler sau này dựng tượng Đế chế Đức một thời mưa gió, ông ta muốn là Trời Phật của nhân loại.(Ingrid Rady, Der Operationssaal war schon vorbereitet, Berlin Mai 1972)

Đổng Thiên Vương trang 25

Nhưng tác giả Lê Chí Thiệp trong Kinh dịch nguyên thủy Nhà in Khai trí Sài gòn 1973 lại nói: Nguyên thủy của Kinh dịch gồm Âm Dương, Ngũ hành, (Hà đồ, Lạc thư)Can chi, Bát quái mới là phần dùng để xem bói. Tác giả Nguyễn Hữu Lương trong Kinh dịch với Vũ trụ quan Đông phương Nha tuyên úy Phật giáo ấn hành 1971 ý cũng tương tự.(Theo Lê Chí Thiệp: Trùng quái tức 64 quẻ kép do người Việt thường vẽ ra không biết để làm gì.Người đời sau cài đặt các tư tưởng Nhân sinh quan vào các vạch). Nói Kinh dịch Nguyên thủy là nói tới Ngũ hành tức Hà đồ, Lạc thư.

Học thuyết Ngũ hành quan trọng nhất trong 1 tập hợp có hệ thống Triết học Đông phương. Như nói Ngũ hành đã có Âm Dương, nói Can Chi đã có Ngũ hành, nói Vận khí đã có Can Chi…Thuyết Ngũ hành bị người phái thực nghiệm phản đối, họ cho là hoang tưởng. Nhưng năm, tháng, ngày giờ với Can Chi từng người đã chiêm nghiệm và, thực tế rất hiển nhiên: Đông y vận dụng thuyết Ngũ hành, Vận khí trị bệnh đạt kết quả mỹ mãn. (1)Bạn đọc xem hình 7B.

“Kinh dịch là 1 kỳ thư…Khó xem do lời văn ngớ ngẩn đột ngột, chủng chẳng rã rời như lời bọn đồng cốt…Đôi chỗ chưa đúng văn pháp…Tinh thần Kinh dịch…nói con Rồng chưa chắc đã con Rồng…”(Dịch giả Ngô Tất Tố_Kịch dịch)

Chú thích: (1)Ngũ tạng của con người thì Gan thuộc Mộc, Phổi thuộc Kim, Thận thuộc Thủy, Tỳ(lá lách thuộc Thổ). Bệnh Gan hư ngoài trị chứng, Đông y còn phải bổ Thận Thủy vì Thận Thủy là mẹ của Gan Mộc(Thủy sinh Mộc). Ngoài ra tùy theo Vận của từng năm, Khí của từng 6 tháng đầu hoặc cuối năm mà dùng phép nhuận, thanh Phế Phổi vì Phổi Kim khắc Gan Mộc(Kim khắc Mộc). Tương tự Tỳ Vị hư hàn gây chứng ỉa chảy phải bổ Tim Hỏa vì Tim Hỏa là mẹ của Tỳ Vị Thổ(Hỏa sinh Thổ). Ngoài ra phải dùng phép bình Gan vì Gan Mộc khắc Tỳ Vị Thổ(Mộc khắc Thổ)…

Đổng Thiên Vương trang 26

Là thư, văn phải tự, chữ.Hà đồ và Lạc thư là Học thuyết Ngũ hành. Nhưng tại sao Kinh dịch không 5 vật cho dễ hiểu mà phải “chủng chẳng” Bát tự “sông Hà hiện đồ, sông Lạc hiện thư”. Khiến cho kẻ văn bất đắc dĩ như  chúng tôi nhiều khi phải “rã rời” buông bút: “sông Hà là sông Hoàng hà…”. “Sông Lạc là 1 nhánh của sông Hoàng hà…” Tinh thần Kinh dịch. Nói long chưa chắc đã Rồng phải chăng nói Hà chắc gì đã sông. Vậy sông Hà ở đây là gì? Chúng tôi tự hỏi vì 2 chữ sông và Hà dường như 1 nghĩa “giang”. Nếu thế là sai văn pháp.

Trên kia, trên cả Tây bắc Trung hoa, bên kia ngọn Hymalaya là Ấn độ(1). Quốc gia của nền Văn minh tối cổ này có 1 con sông tên chữHằng nghĩa là lâu bền mãi mãi. Chúng tôi cho rằng Hà và Lạc trong 8 chữ sông Hà hiện đồ sông Lạc hiện thư không phải “thực” mà là “Văn”, sông Văn. Chúng có quan hệ tinh thần với xứ Thổ dân Indi’a trên kia.

Người xưa lấy sông núi để chia các vùng đất gọi làchâu. Như Châu ô, Châu lý(2). Sông Hán, sông Nguyên(3). Mỵ châu(4), Phong châu(5)…“Sông Hà hiện đồ, sông Lạc hiện thư”. Sông lạc. Lạc là vui thích, Âm nhạc tượng cho phương Nam. Sông Lạc là vùng đất người phương Nam. Biết Nam, vế chính sẽ là Bắc. Sông Hà. Hàlà sông Thiên hà trên Trời. Làm gì có Trời với cả sông trên ấy. Phải chăng Hinduganga mà người Indi’a(6) gọi sông Hằng?

Chú thích:

(1)Âm Ấn độ được phiên từ âm tiết Indo trong các chữ hệ Latinh. Như Indo’European, tiếng Anh là loại ngôn ngữ kết hợp giữa tiếng Ấn và tiếng Âu. Khởi nguyên chữ Hán là tiếng Phạn. Indo chúng tôi dịch âm là Ấn độ. Ấn: in, con dấu, khắc chữ…Độ: Thổ độ, đất, đất có người sinh sống, Thổ dân, giống Thổ, 1 âm(Nhạc) gọi là Đô…Indo ý Ấn độnhư 1 trong những cái nôi của Nhân loại.

(2)Ô là màu đen, màu đen thuộc Thủy. Thủy sinh tại Bắc. Châu ô là vùng đất của người phương Bắc. Lý từ chữ Lý dép, quẻ Thiên trạch lý trùng quái phương Đông Nam. Châu Lý là vùng đất của người  phương Nam.

(3)Hánlà chỗ sườn núi có thể làm nhà ở được. Háncòn là 1 giống ở cao nguyên Tây tạng trước thời Hoàng đế. Sông Hán là vùng đất của người Hán. Nguyênlà vốn như nguyên bản. Nguyên còn là bắt đầu, xuất phát, to lớn. Sông Nguyên ý vùng đất của ThổĐộ.

(4)Mỵ Châu. Mỵlà ngủ say. Châu là vùng đất.Châucòn là Ngọc châu Ngọc trai. Ngọc tượng cho phương Đông(Vàng tượng cho phương Tây). Mỵ Châu là vùng Đất phương Nam còn ngủ say.

(5)Hoàng Đế nội kinh là sách gối đầu của Nhà y. Giải thích Gan, 1 trong 5 Tạng con người, sách viết: Đông phương sinh Phong, Phong sinh Mộc, Mộc sinh toan, toan sinh Can. Nghĩa là phương Đông sinh ra gió, gió sinh ra cây, cây sinh ra vị chua, vị chua sinh ra Gan. Phong Châu là vùng đất của gió. Quẻ Tốn gió Hậu thiên bát quái xếp Đông Nam từ tính triết học này).
(6)Các chữ hệ Latinh như Indi’a, Indi’an, Indi’genous, Indi’genducspeopl, Indi’aner… gốc từ là Indi. In: ấn, con dấu, khắc chữ. Đi: hành,in ấn xong phát hành ra gọi là Indi.

Tháng Mười Hai 2024
H B T N S B C
 1
2345678
9101112131415
16171819202122
23242526272829
3031