chuyện phù đổng

Đổng Thiên Vương trang 24

Chu dịch là bộ sách chiêm phệ cổ đại…có quan hệ mật thiết tới triết học, tôn giáo, phong tục dân tộc…”(Thiệu Khang Tiết, Thiệu ung-Mai hoa dịch)

Trong cuốn Kinh dịch đạo Người quân tử, tác giả Nguyễn Hiến Lê nói rằng Tây như người Đức có Jung “là 1 trong những thủy tổ Phân tâm học…chuyên nghiên cứu tiềm thức con người”. (1)Jung bắt chước Thiệu ung bói việc trên 64 quẻ kép.

Chú thích:(1)Phân tâm mà là tiềm thức ư? Jung (tính từ trẻ) với phân tâm chúng tôi không biết. Nhưng…Frerd là bác sỹ thần kinh Đức với Phân tâm, môn khoa học về “Tâm không chủ định”. Chúng tôi biết ông còn sang cả phương Đông với Ngũ hành, 1 học thuyết quyết định cho cái tên “Văn minh sông Hằng”. Bạn đọc xem hình . Đây là biểu trưng nước Đức Deutschland những năm 1930 và cũng là hình trên ngực Phật khi giáng thế. Nhà chùa nói rằng đó là chữ Vạn. Theo cố Nhà sư Thiều Chửu thì tiếng Phạn và Hán tự không có chữ nào như vậy cả. Kia là hình tướng chứ không phải chữ. Là hình tướng, chúng tôi nói hình tướng Ngũ hành. Gốc hình này là 1 dấu cộng giống chữ Hán + thập tượng cho 4 phương chính Đông, Tây, Nam, Bắc. 4 đầu dấu cộng đính với 4 vạch ngắn như 4 cái đuôi để diễn đạt hình khi quay. Nếu quay theo chiều thuận thì cái đuôi đi sau. Người cổ Ấn độ giải thích thế giới bằng thuyết Ngũ hành của họ cho rằng: Vũ trụ được sinh ra bởi 5 thứ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Bạn đọc xem 2 hình 6B. “Đạo Trời quay từ trái sang phải”. Hình 6Ba là tướng Ngũ hành biểu trưng cho Trời, Phật, những khái niệm gọi Đấng tối cao. Như đã nói, Frerd rất tâm đồng với Ngũ hành. Nhưng đâu biết đã  mớm văn cho Hittler sau này dựng tượng Đế chế Đức một thời mưa gió, ông ta muốn là Trời Phật của nhân loại.(Ingrid Rady, Der Operationssaal war schon vorbereitet, Berlin Mai 1972)

Đổng Thiên Vương trang 23

Chúng tôi tạm dừng 2 chữ “cấp” và “các” đề chuyện Đổng Thiên Vương để cụ thể thêm đôi điều về Hà đồ Kinh dịch.Bạn xem hình 5B. Trên hình là 10 con số sinh và thành của 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Số sinh là số to đậm, số thành là số nhỏ mảnh.

Sinh và thành của Ngũ hành không phải diễn ra cùng 1 lúc mà thứ tự lần lượt nhưng thúc hốtchớp nhoáng rất nhanh. Giai đoạn sinh thì Thủy Bắc số 1, Hỏa Nam số 2, Mộc Đông số 3, Kim Tây số 4 và cuối giai đoạn sinh là số 5 Thổ giữa Trung ương.

Giai đoạn thành của Ngũ hành cũng bắt đầu từ Thủy. Thủy Bắc số 6, Hỏa Nam số 7, Mộc Đông số 8, Kim Tây số 9 và cuối giai đoạn thành là Thổ số 10 thập toàn. Do 1 sinh 1 thành công dụng nên Hà đồ Kinh dịch gọi gộp số sinh và thành của từng hành lại với nhau. Như về hành Thủy “Trời lấy số 1 mà sinh hành Thủy, Đất lấy số 6 mà làm cho thành Thủy”. Về hành Hỏa “Đất lấy số 2 mà sinh hành Hỏa, Trời lấy số 7 mà làm cho thành Hỏa”. Hành Mộc “Trời lấy số 3 mà sinh hành Mộc, Đất lấy số 8 mà làm cho thành Mộc”. Hành Kim “Đất lấy số 4 mà sinh hành Kim, Trời lấy số 9 mà làm cho thành Kim” và hành Thổ “Trời lấy số 5 mà sinh hành Thổ, Đất lấy số 10 mà làm cho thành Thổ”(1).

Chú thích:
(1a)Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục thành Thủy. Địa nhị sinh Hỏa, Thiên thất thành Hỏa. Thiên tam sinh Mộc, Địa bát thành Mộc. Địa tứ sinh Kim, Thiên cửu thành Kim. Thiên Ngũ sinh Thổ, Địa thập thành Thổ. Đây là cách nói của Thiệu Khang Tiết Mai hoa dịch.
(1b)Số thứ tự của 10 Can(can chi): Giáp số 1, Ất số 2, Bính số 3, Đinh số 4, Mậu số 5, Kỷ số 6, Canh số 7, Tân số 8, Nhâm số 9, Quý số 10. Chúng được xếp theo từng cặp 1 số sinh 1 số thành của Ngũ hành. Do vậy tuổi người đứng ở hàng can Giáp hợp với năm, tháng, ngày, giờ và với tuổi người có hàng can Kỷ(số 1 hợp số 6, Giáp hợp Kỷ). Tuổi người đứng ở hàng can Ất hợp với năm, tháng, ngày, giờ và với tuổi người có hàng can Canh(số 2 hợp số 7, Ất hợp Canh). Tương tự Bính hợp Tân(số 3 và số 8). Đinh hợp Nhâm(số 4 và số 9). Mậu hợp Quý(số 5 và số 10).

Đổng Thiên Vương trang 22

“Chim bằng”. Bằng từ thành ngữ “bằng ngang phải lứa”. Bằng, bình, biền nhưThủy bình, nước bằng phẳng. Nghĩa là hành Thủy tuy sinh trước nhưng cũng chỉ ngang bằng với 4 hành Kim, Mộc, Hỏa, Thổ còn lại. Triết lý này Trang Tử đã khẳng định ở chương II Tề vật luận: 5 vật Kim Tây số 4, Mộc Đông số 3, Thủy Bắc số 1, Hỏa Nam số 2 và Thổ Trung ương số 5 đều bằng nhau. Trong 5 hành Ngũ hành thì 2 hành Thủy Hỏa quan trọng nhất cho sự sinh hóa vạn vật. Chúng như 2 cái “các”, ao đo nhau. Bạn đọc xem dòng 6 trang 29: “…Bể nam là ao Trời…” và dòng 15, 16 trang 30 “…phía Bắc miền hiếm cây…” có bể thẳm tức ao Trời(1)…” Đáp ý “bằng”, “ao” của Trang Tử, tác giả chuyện Đổng Thiên Vương thuận lý dùng “các” cho đề chuyện “Các bô lão đến sân rồng cấp báo, Đổng Thiên Vương vây đánh bại giặc Ân”. Chúng tôi tiếp tục:

“Hồi 6”… “Thời (thì) Hùng Vương ngành(nhánh, chi) thứ 6”. Đúp số 6. Sơ ý lặp tự chăng? Không phải! Đây là phép xướng đề. Mục đích hướng người đọc vào vấn đề tác phẩm (như số VII, 7 khiếu, 7 ngày chuyện Thúc Hốt, Hỗn Độn của Trang Tử). Bạn đọc xem hình 4B. Trong hình, 6 là số thành hành Thủy. Lặp con số 6 nghĩa là khi hành Thủy phương Bắc bắt đầu vào giai đoạn thành 6 thì hiện tượng gì sẽ xảy ra với 4 hành Kim, Mộc, Hỏa, Thổ vẫn ở giai đoạn sinh. Trực tiếp là Hỏa vì Thủy khắc Hỏa và Thổ vì Thổ khắc Thủy. Chúng ta dễ nhận phép xướng đề ở “Hồi 1 họ Hồng bàng đầu tiên, đầu tiên là số 1. Hồi 2 thời Hùng Vương ngành thứ 2 chuyện Lạc Long Quân diệt Ngư tinh. Hồi 3 thời Hùng Vương ngành thứ 3 chuyện Tiên Dung và Chử Đồng Tử, đầm(đoài). Hồi 4 thời Hùng Vương ngành thứ tư chuyện trầu cau anh em Tân Lang. Hồi 5 thời Hùng Vương ngành thứ 5 chuyện dưa hấu An Tiêm. Hồi 7 thời Hùng Vương ngành thứ 7 chuyện cáo 9 đuôi. Hồi 8 thời Hùng Vương ngành thứ 8 chuyện Quỷ Xương Cuồng. Hồi 9 thời Hùng Vương ngành thứ 9 chuyện Lang Liêu và bánh trưng…”

Chú thích:

(1)Đọc thì ao là hồ. Chữ hồ 2 tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc Trung quốc từ “các” ao này.

Đổng Thiên Vương trang 21

Các bô lão đến sân rồng cấp báo”…Cáclà cái ao, cái hộc, cái đấu dùng để đo cho bằng. Chữ này trong dân gian vẫn còn như mỗi khi nhận đồ vật người ta thường bảo nhau phải “ao lại”, tức phải đo lại cho bằng đúng. Hành Hỏa phương Nam sinh sau là vật thứ 2 đo bằng hành Thủy sinh trước vật thứ nhất. Bạn đọc xem chương I Tiêu dao du Nam Hoa Kinh. Đây là chương Trang Tử bàn về số 1 sinh của hành Thủy khởi đầu vũ trụ. “Bể Bắc có loài cá, tên nó là côn…hóa mà làm loài chim, tên nó bằng…”

Cá thuộc âm, Thủy thuộc âm nên ví cá(cá còn đọc cả, nghĩa Bắc với hành Thủy chỉ là phương lớn, hành lớn). Chim thuộc dương. (1)Là lẻ, cơ, dương số nên số 1 sinh Thủy tác giả ví chim, Chim bằng.

Trong tự nhiên có loài chim lớn thế không mà dòng 5 trang 29 nói: “…Cánh của nó như đám mây rũ ngang trời. Loài chim ấy bể động thì dời sang bể Nam…”Dòng 9: “đi 6 tháng mới nghỉ”. Bạn đọc xem hình 3B. Hà đồ là vòng quay của 1 năm: Đông sinh Xuân, Xuân sinh Hạ, Hạ sinh trưởng Hạ, trưởng Hạ sinh Thu, Thu sinh Đông.Từ Bắc sang Nam tức từ Đông sang Hè nửa năm, 6 tháng. Chim bằng là số 1 sinh của hành Thủy!

Chú thích:
(1)
Dương có tính thượng thăng (âm có tính hạ giáng) mà lên với người Thiên cổ. Gà thuộc bộ điểu, chim. Tục cúng gà trống non chưa đạp mái tức thuần dương (số 1 sinh của hành Thủy thuần dương, chưa phối ngẫu với âm số 6 thành) từ tính triết học này.

Đổng Thiên Vương trang 20

Bạn đọc cùng chúng tôi giở trang 80 Tân đính Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh. Hồi 6 “Các bô lão đến sân rồng cấp báo, Đổng Thiên Vương vây đánh giặc ân”.
Đề chuyện gồm 2 câu, mỗi câu 8 chữ thểBiền ngẫu dùng cho văn chương thi cử ngày xưa. Thể văn Nôm này rất khó là phải bàn được ý thứ 2. Muốn vậy, thí sinh phải biết xuất xứ đề. Các nhà Nho ở Hà tĩnh truyền kể Nguyễn Du(tác giả Truyện Kiều sau này) thi cử gặp phải thể Biền ngẫu chuyện Cao Biền và Tô Lịch: “Cậy thế đô hộ Cao Biền yểm trấn, sẵn tính anh linh Tô Lịch phá tan” ở cuốn Lĩnh Nam… Nhưng không phải Lĩnh Nam chích quái mà là Lĩnh Nam trích quái lục(?) Cụ bị liệt điểm. Nghe nói 3 năm sau Nguyễn Du trở lại Kinh kỳ để thi tiếp thì được miễn thí. (1)Giờ, 2 câu đề chuyện Đổng Thiên Vương chúng tôi sẽ bàn trước 2 chữ đó là “cấp” và “các” câu nhất.

Chuyện Thúc Hốt Hỗn Độn Nam Hoa Kinh. Con số 5 sinh của hành Thổ giữa Trung ương Trang Tử “văn hóa” bằng nhân vật Hỗn Độn, Tỳ(lá lách), tạng thứ 5 Ngũ tạng của Người. Chuyện Đổng Thiên Vương  cũng vậy.

“Cấp báo”. Cấplà bệnh cấp hạ tức rối loạn tiêu hóa. Có 2 chứng: Chứng thứ nhất táo bón do dạ dày thực nhiệt; Chứng thứ 2 ỉa chảy do dạ dày hư hàn. “Cấp” đây chứng thứ 2. Bạn đọc xem dòng 16 trang 81: “Thư(2) cấp báo ngày mấy lần” và dòng 15 trang 80: “Phương sỹ Phàn a”. Phương sỹlà Thầy thuốc. Phàn a. Alà ỉa chảy. Phànphèn như bạch phàn, 1 phương dược Đông Tây y dùng chữa chứng ỉa chảy. Ta thấy số 5 sinh Thổ Trang Tử ví Tỳ(lá lách) do vận hóa kém phải dùng phép chữa kiện. Chuyện Đổng Thiên Vương ví Vị(dạ dày) do ỉa chảy phải dùng phép cấm cố, thu liễm. Tỳ và Vị cả 2 đều thuộc Thổ ứng giữa Trung ương. (3)Bạn đọc xem hình 2B.

Chú thích: (1)Chúng tôi sẽ chép lại đáp án của Nguyễn Du cuối phần này.
(2)Thưđất lầy,bại hoại.
(3)Tuy Tỳ và Vị đều thuộc Thổ nhưng Tỳ thuộc Ngũ tạng. Ngũ tạng thuộc Dương(trước), Trang Tử ví với số 5 sinh Thổ là đúng. Nhưng Vị thuộc Lục phủ, Lục phủ thuộc Âm(sau). Sinh thuộc Dương, thành thuộc Âm. Vị ứng với số 10 thành Thổ, Đổng Thiên Vương ví vậy là gượng ép.

Đổng Thiên Vương trang 19

Vẫn con số 9. Theo tham Thiên của Chu Hy, số 9 bằng 3 lần con số 3 : 3 x 3= 9. Vì là lẻ, cơ, dương và ở ngôi cao nhất trong  10 số Hà đồ và 9 số Lạc thư, tượng Dương già nên nói số 9 là thành đạt. Phương Đông hữu hình, phương Tây vô hình. Gặp con số 9 Hà đồ phương Tây người xưa thường nói thác đi như “Tứ xuyên” không nói Cửu xuyên. “Kim sơn” không nói Cửu sơn. “Thục xuyên”…Tục không nhắc tới người đã mất(tức khuất núi) dựa vào tính triết học vô hình bên phải phương Tây từ con số 9 Hà đồ thành Kim này.

Lại con số 9 thành Kim. Vì phương Đông hữu hình nên ở Lạc thư người ta dùng thẳng như Cửu long, Cửu khiếu, Cửu tộc, Cửu tuyền, (tuyền là tòan vẹn)ngày 9 tháng 9(Trùng Cửu…).

*Cuồi cùng nhưng lại bắt đầu là con số 10 thành hành Thổ. Nói bắt đầu vì diễn số 10: 1+0=1, số khởi.

Phépdiễn số được ứng dụng rộng rãi trong văn hóa dân gian. Ví như chê một người đàn bà nào đó nhà Nho nọ có câu: “Vô duyên chưa nói đã cười, cười chi mà lại hở 10 cái răng”. Hai hàm răng đâu chỉ 10 cái, diễn số chăng? Nhà Nho này như khẳng định con số 10 là diễn số: “Đi nhai đứng ngậm ngồi cười, vô phúc vô đời mọc 1 cái răng”. Hoặc con số 100 bách với 1 cái bọc, bao, bào trong chuyện Âu Cơ và Lạc Long Quân. 100 là tổng của các số 55 Hà đồ và 45 Lạc thư đủ Hà Lạc, Bắc Nam thể nguyên và dụng. Tưởng số lớn nhưng diễn ra lại nhỏ 100: 1+0+0=1 là số khởi. 100 bách là chẵn, ngẫu, âm số đúng lý phải cho ra con gái vì đàn bà thuộc âm. Nhưng lại nở ra 100 chàng trai do diễn thành 1 lẻ, cơ, dương số(đàn ông thuộc dương). Một nửa 100 bách là 50(50 là số đại diễn, nhỏ nhưng diễn ra lớn 50: 5+0=số 5 đại). 50 theo Âu Cơ lên rừng phương Tây Bắc nơi “Thiên nhất sinh Thủy”. 50 theo Lạc Long Quân xuống biển phương Đông Nam nơi “Địa nhị sinh Hỏa”. Vũ trụ trong chuyện Âu Cơ và Lạc Long Quân là 1 thái cực mới có 2 nghi Âm Dương với 2 hành Thủy Hỏa. Mỗi nghi, mỗi hành nhận 1 số 50 đại diễn(tức số 5 đại) của con số 100 bách(tức số 1 khởi). Số 100, chữ báchgồm chữ bạch, bạch là màu trắng, trắng rõ, không có gì cả ở dưới, chữ nhất là số 1 khởi ở trên. Chuyện đẻ trăm trứng, Rồng bạch trong Lĩnh Nam chích quái sáng tác trên ý tưởng 1 thái cực từ con số 100 bách này. Chúng tôi sẽ tiếp tục bàn ở hồi I, hồi II, thêm cái gọi là dân tộc Bách Việt Lịch sử nước Việt.

Thánh Gióng trang 16

Trở lại với nhân vật Hỗn Độn. 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì 2 hành Thủy Hỏa quan trọng nhất. Thủy sinh trước ngôi Đế, Hỏa sinh sau ngôi Vương. Chương VII Ứng Đế Vương Nam hoa kinh của Trang Tử bàn triết lý Thủy Hỏa.

Chúa bể Nam là Thúc, chúa bể Bắc là Hốt, chúa khu giữa là Hỗn Độn. Thúc cùng Hốt thường gặp nhau trên đất của Hỗn Độn. Hỗn Độn đối đãi họ rất tử tế. Thúc cùng Hốt mưu trả ân Hỗn Độn nói rằng: Người ta đều có 7 khiếu để trông, nghe, ăn, ngửi. Riêng ông này không có. Ta đục thử xem. Ngày đục 1 khiếu. 7 ngày mà Hỗn Độn chết.

Chúng tôi tóm lược: Hai hành Thủy Hỏa trong 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đang ở giai đoạn sinh. Thủy Hốt số 1 Bắc thấm nhuận xuống Nam. Hỏa Thúc số 2 Nam hun bốc lên Bắc. 2 hành đồng thời gặp nhau ở giữa Trung ương. Thổ lúc này vẫn ở giai đoạn sinh 5.

Giai đoạn thành của Ngũ hành được bắt đầu bằng câu “Đất lấy số 6 mà làm cho thành Thủy” Kinh dịch. Ở ngôi cao nhất trong 5 hành giai đoạn sinh đơn cực. Trong lúc đó Thủy có đầy đủ sức mạnh Âm Dương sinh thành nên giữa Trung ương lộn xộn. Hiện tượng này Trang Tử gọi bế tắc, Đổng Thiên Vương ví “giặc ân” “manh tâm muốn thôn tính các nước xung quanh”.

Hỗn Độn giữa Trung ương Thổ có nguyên nhân thứ 2 nhưng quyết định đó là cán cân Thủy Hỏa Bắc Nam thiên lệch. Vì như đã nói Thủy đủ 2 số sinh 1 và thành 6, còn Hỏa vẫn đơn số 2 sinh.

Muốn giải quyết tình trạng trên, hành Hỏa phải lập tức vào giai đoạn thành. Thế là “7 khiếu”, “7 ngày”, chương VII Ứng Đế Vương Nam hoa kinh của Trang Tử ra đời tượng cho hành Hỏa phương Nam cũng đầy đủ sức mạnh để “kẻ kia 9 lạng người này nửa cân”.”Gióng gánh cân bằng”. Chim bằng bể Bắc được cái “các” ao Nam đo ngang. Mọi “bế tắc” “manh tâm” giữa Trung ương Thổ hết. “Đục 7 ngày mà Hỗn Độn chết”, chữ “đục” Trang Tử lấy từ thành ngữ “cưa dứt đục thông”. Bạn đọc xem hình 14A. (Kỳ tiếp: Chuyện Đổng Thiên Vương)

Thánh Gióng trang 15

Thưa bạn đọc! Như đã nói, do chúng tôi đọc sai luật trắc bằng câu phú “Cao Sơn cảnh hạng” thành “Cao Sơn cảnh hành” mà các nhà Nho “chơi chữ nghịch âm” hành thành Ngọc.

Hà đồ Mai hoa dịch nói: Thổ sinh Kim. Thổ vô hình giữa Trung ương sinh Kim Tây. Tương tự Thổ hữu hình 4 phương phụ đều sinh được Ngọc. Trong 4 phương phụ: Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, phương Đông Nam thấp. Lại là phương đối Tây Bắc quẻ kiền Trời nên triết học lấy điển hình làm Thổ. Đông Thổ đối Tây Thiên, hữư hình đối vô hình, trái đối phải, Ngọc đối Vàng… Ngạn ngữ: “ngôn vi Ngọc, ngậm vi Kim”. Lời nói là Ngọc, im lặng là vàng phải chăng dựa vào triết lý 2 phương Âm Dương, Đông Tây, trái phải…? Chúng tôi phân vân và thật sự hoang mang về âm “hành” trong Cao Sơn cảnh hạng. Tại sao Ngọc mà thừ người trước chữ Ngọc được tra từ âm “hành” trong cuốn Tự điển Hán Việt của cố nhà sư Thiều Chửu.Ngọc này là Ngọc đeo gồm chữ Ngọc, bên cạnh thêm chữ hành thì giật nẩy người: “Cao Sơn cảnh Ngọc… hành ôhô Nhạc Sơn. Do ngươi đấy thôi. Cố tình đọc sai luật trắc bằng Phú nhưng… cũng thuận ý chúng ta! Đây là cao văn hóa, dụng số 9 Lạc thư chứ Thái gì kia mà gọi Sơn, Cao Sơn. Kim Sơn! Hymalaya…”Chúng tôi nghe như có tiếng từ rất xa những dãy non xứ Thục xuyên. Xen lẫn là tiếng rền như sấm của âm Hùng với 18 thời, ngành(nhánh chi) vương, vượngtriết học: “Cao Sơn cảnh hạng”, “Cao Sơn cảnh Ngọc”! Như trong nắng sớm mưa chiều có một cụ già đầu trời chân dép cỏ. Cụ chống cái gậy hình “một chiếc kim châm với lọ cồn”. Cổ cụ đeo lủng lẳng hai quả hồ lô dược tích hệt danh y Lý Cảo đời Tống. Gương mặt thoáng nụ cười tinh nghịch, cụ vừa đi vừa lẩm bẩm: “Ngọc được gia hành là nhanh rõ Ngọc”, “Ngọc được gia hành là nhanh rõ Ngọc”…

Thánh Gióng trang 14

Phương Tây Bắc quẻ Kiền Trời, phương đối là Đông Nam quẻ tốn. Bạn đọc xem hình 11A. Trong Hậu Thiên bát quái Mai hoa dịch, 2 quẻ Kiền và đoài Thuộc Kim vì ở Tây Kim. 2 quẻ chấn và tốn thuộc Mộc vì ở Đông Mộc. Bạn đọc xem hình 12A.

Đông Tây tức Âm Dương, Trời Đất. Tây Kim khắc được Đông Mộc, Kim khắc Mộc. Nếu ngược lại Mộc không khắc được Kim. Không như  2 hành Thủy Hỏa, Kim và Mộc phải một mất một còn. Kẻ còn đó là Dương Kim Trời. Điều này được chứng minh ở một cái lễ Nhà chùa, lễ trùng tu gọi “phạt Mộc”. Phạt không cho Mộc lấn lướt quyền cao chức trọng của Dương Kim Trời. Bởi Phật giáo với nền tảng triết học Đông phương coi Mộc là vật nhưng phải giữ 1 cực để dựng Âm Dương Đất với Trời mà thôi.

Trời Đất ở 2 ngôi định vị. Trời đứng ở Tây Bắc, Tây Thiên thì Đất nằm ở Đông Nam, Đông Thổ. Trời Thuộc dương Kiền, Đất Thuộc âm Khôn. Cũng như Mộc với Kim, Đất cũng chỉ là vật hữu dụng không thể so với Trời. Phương Đông Nam thuộc Thổ! Bạn đọc khoan bất bình vì trong Hà đồ, Thổ ứng giữa Trung ương mà đây phương Đông Nam. Có điều gì chưa ổn chăng ?

Một năm có 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông. Mùa Xuân thuộc Mộc, Hè thuộc Hỏa, Thu thuộc Kim, Đông thuộc Thủy. Trái đất quay trên một trục nghiêng khoảng 23 độ nên cứ 4 vòng hết 1 chu kỳ lại về ban đầu. 4 vòng với 4 tháng cuối của mỗi mùa đó là tháng 3 Thìn, tháng 6 Mùi, tháng 9 Tuất, tháng chạp Sửu thuộc Thổ, (có sách nói chỉ 18 ngày cuối của 4 tháng đó mới thuộc Thổ)Chúng đều ứng giữa Trung ương. Bạn đọc xem hình 13A.

Vũ trụ bên trái Đông thuộc Thủy hữu hình, biển cả. (bạn đọc không nhầm Thủy vô hình tức “nước trong nguồn” khởi ở Tây Bắc)Bên phải Tây thuộc Kim vô hình. Con người là tiểu vũ trụ. Cũng như vũ trụ Mẹ, bên trái là đường lối của Huyết, Huyết hữu hình thuộc Âm. Bên phải là đường lối của Khí, Khí vô hình thuộc Dương. Nước hữu hình biển cả cũng như Huyết trong con người ta với Mộc cây và Thổ hữu hình nữa, tất cả chỉ vật hữu dụng. (Bạn đọc xem thang dược Tứ vật bổ Huyết và bài Tứ quân tử thang bổ Khí trong cuốn Hải Thượng lãn ông tâm lĩnh. Bác sỹ Nguyễn Văn Thang giới thiệu. Nhà xuất bản Y học)Chữ cảnh mà vật trên bức hoành trước cổng đền Hùng Vương nguyên ý “vật” hữu dụng.

Thánh Gióng trang 13

Nói Đông ngoài chính Đông có thêm Đông Nam. Tương tự Tây, ngoài chính Tây còn thêm Tây Bắc. Trong Hậu Thiên bát quái hai quẻ kiền Trời và đoài Trạch thuộc Kim vì Kim sinh thành tại Tây. Bạn đọc xem hình 10A.

Vũ trụ có 4 phương chính Đông Tây Nam Bắc. Âm Dương là đối xứng. Đông đối Tây, Nam đối Bắc. Hai phương Bắc Nam tuy đối xứng nhưng người xưa không cho là Âm Dương. Vì 2 hành Thủy Hỏa, tuy Thủy dập tắt Hỏa nhưng Hỏa có khả năng biến Thủy thành dạng hơi. Như mặt trời là một thứ lửa đốt nóng trái đất. Hơi nước ở các sông ngòi, hồ ao, biển cả bốc lên cao. Ở trên cao hơi nước gặp lạnh ngưng thành nước rơi trở về trái đất. Chu trình này cứ diễn năm này qua năm khác. Thêm nữa “Âm trung chi Dương, Dương trung chi Âm”. Tuy sinh trước, số 1 cơ, Dương nhưng Thủy thuộc Âm. Sinh sau, số 2 ngẫu, Âm nhưng Hỏa lại thuộc Dương. Nghĩa là Thủy thì trong Âm có Dương, Hỏa thì trong Dương có Âm. 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì 2 hành Thủy Hỏa quan trọng nhất cho sự sinh hoá vạn vật. Là 2 thứ “kỳ phùng địch thủ”.

2 phương Đông Tây mới biểu đạt cho Âm Dương. Phương Đông mặt trời mọc người xưa đọc trước. Phương Tây mặt trời lặn đọc sau. “Đấng Thánh nhân quay mặt về phương Nam trị vì thiên hạ”. Phía tay trái đọc trước, tay phải đọc sau. Như “tả dực hữu dực”, “Đông đào Tây liễu”. “Xuân Thu”: Mùa xuân ứng phương Đông bên trái, mùa thu phương Tây bên phải. “Ba thu”: số 3 sinh Mộc bên trái Đông, mùa thu ứng bên phải Tây. Ba Thục: số 3 sinh Mộc bên trái Đông. Thục là chín, đun chín, đồ chín đồng âm với chín, cửu, số 9 thành Kim phương Tây bên phải… Quan niệm trước sau ở đây chỉ đơn thuần dựa theo phương mọc lặn của mặt trời. Thực ra Trời tức Dương mới tại Tây, Tây Thiên.

Tháng Mười Hai 2024
H B T N S B C
 1
2345678
9101112131415
16171819202122
23242526272829
3031