chuyện phù đổng

Thánh Gióng trang 12

Trước quẻ Thiên Trạch Lý là quẻ Địa thiên thái. Hai quẻ thì Thái đọc trước Lý đọc sau; Đọc từ phải sang trái theo chiều vận hành của Lạc thư. Thái đọc trước; Người phương Bắc lấy quẻ Thái làm phương vị bởi họ đứng ở phương Bắc Thủy sinh trước nên phải trước. Lý đọc sau; Lĩnh Nam phương Hỏa sinh sau Bắc Thủy phải chấp nhận lấy quẻ Lý làm phương vị. Dễ nhận thấy chữ Lý có trong danh gọi các triều đại phong kiến nước ta như Lý Nam Đế, Lý Thái Tổ, Lý Công Uẩn… Đặc biệt trong dân ca Lý rất nhiều, điệu hát này tập trung chủ yếu ở Trung Nam bộ. Rõ càng đi sâu vào phương Lý thì điệu Lý nở rộ xuân bông. Miền Bắc có duy nhất Lý quán dốc còn Trung Quốc thì tuyệt nhiên không.

Nói tới Lý, chúng tôi dừng lại đôi điều về họ Lý Long Tường. Họ Lý, tên Lý người phương Bắc có. Nhưng Lý Long Tường là… 1 họ lấy ý từ chữLý dép quẻ Thiên Trạch Lý trùng quái phương Đông Nam. Long là rồng tượng cho hành Hỏa cũng Đông Nam. Trong kiến trúc cổ có 1 kiểu gọi là “thành quách”. Thành ở trong, quách ở ngoài. Thành còn gọi tường tức trong. Như đã nói, Hỏa sinh sau, Âm. Số 2 là ngẫu, số chẵn, Âm. Phương Đông Nam thấp, Âm. Trong thuộc Âm(ngoài thuộc Dương). Dù phương Nam nóng, sáng(phương Bắc lạnh tối) chúng ta vẫn nói vào Nam tức đi vào trong tường, thành. “Cây”, “hoa” là tượng hình vật 2 quẻ chấn và tốn trong Hậu Thiên bát quái Mai hoa dịch. Quẻ chấn chính Đông, quẻ tốn Đông Nam. Sơn là số 9 Lạc thư cũng Đông Nam. Hoa Sơn là hiệu của họ Lý Long Tường. Vậy Lý Long Tường là Lý của người phương Nam.

Phương Đông Nam hướng quẻ Lý là biển. (Phật giáo gọi Nam hải)Ngoài đó cóCôn sơn. Sơn là số 9 Lạc thư. Côn là côn Ngọc anh emlấy ý từ 2 hành Thủy Hỏa Thúc Bá của Trang Tử. Cônlà hỗn diệu rực rỡ chói lọi vì Đông Nam phương mặt trời mọc nóng sáng.Côn là cá côn. Cá còn đọc cả, đại nghĩa Nam Hỏa cũng là phương lớn, hành lớn đối trọng ngang bằng với Bắc Thủy.

Tương truyền ngoài Nam hải có 3 hòn đảo Tiên. (3 là số sinh của hành Mộc bên trái Đông)Trong đó có một hòn gọi là Châu dinh, nhà Ngọc. Có cả Ngọc trai, những đứa con của Mỵ Châu, vùng đất Ngọc còn ngủ say mộng mị trong truyền thuyết An Dương Vương. Lại có cả Ngọc hành, 1 loài thảo dược bổ dương tráng vật… Ôi Lĩnh Nam ta nhiều Ngọc quá! Ngọc nào các nhà Nho văn dịch cho 4 âm “Cao Sơn cảnh hành” đây?

Thánh Gióng trang 11

Thưa bạn đọc! Chúng tôi rất nhớ ông Hỗn Độn trong chương VII Nam hoa kinh của Trang Tử. Nhưng tại 7 khiếu ông ta mà dụng Cửu, dùng con số 9 khiếu của Người. Lại từ số 9 Lạc thư phải “dây cà dây muống” leo “Cao sơn cảnh hạng”. Bạn đọc thông cảm!Chúng tôi dịch kiểu 2:

Cao Sơn cảnh hạng là 1 câu Phú. Luật trắc bằng của Phú rất đơn giản nhưng nghiêm khắc. 4 chữ thì chữ thứ 2, chữ thứ tư khác thanh là được. Ví như: “Trời nồm tốt mạ”, “Bĩ cực thái lai”, “Ngựa tế Đồng nai”, “ Lĩnh Nam chích quái”…Cao Sơn cảnh hạng. Hạng lẽ ra phải dùng chữ này. Nhưng tác giả câu Phú tin chắc sẽ có người đọc Cao Sơn cảnh hành; Dotrên dưới 10 âm và cũng ngần ấy ngữ nghĩa. Hành tức đi là nghĩa thứ nhất.

Cũng như thơ, luật trắc bằng của Phú nhằm đảm bảo tính nhạc điệu. Bởi thế, đọcra “Cao Sơn cảnh hành” là thất luật, phi nhạc điệu. Cả 2 cái “thất” và “phi” làm cho Phú nghe buồn cười. Nếu có 9 suối chốn Cửu tuyền thì các cụ chúng ta chẳng “ngậm”, chắc chắn sẽ bật lên rằng: “Hậu sinh Nhạc Sơn! Thật uổng 2 chữ Âm luật cho tên ngươi. Đọc vậy mà Lạc Nhạc nghe được ư? Đã thế cho biết: âm hành ngươi đọc chúng ta nghe để dịch là “Ngọc”, Cao Sơn cảnh Ngọc!

Thú thật với bạn đọc chúng tôi rất hoang mang mà tự hỏi: Tại sao lại Ngọc? Hànhcơ mà! Đây mới là Ngọc. Mà Ngọc thì Ngọc nào? Ngọc Thôi lượng, Thôi vĩ, Toại châu…Ngọc Hoàng chúa tể Trời Đông hay Ngọc hoa Công chúa, Giếng Ngọc, Ngọc phả?…

Như ở phần giải 4 chữ Lĩnh Nam chích quái, nước Việt Nam ngày nay hướng chính Nam. Còn Lĩnh Nam ngày xưa hướng Đông Nam ứng với phương quẻ Thiên Trạch Lý trong viên đồ 64 quẻ kép. Bạn đọc xem hình 9A.

Thánh Gióng trang 10

Miên man quá xin lỗi bạn đọc! Chúng tôi muốn về với “ông Hỗn Độn” nhưng đang dở dang 4 chữ Cao Sơn cảnh hành trên bức hoành trước cổng đền Hùng Vương.Chúng tôi dịch 2 kiểu: Dịch chữ(còn gọi là vọng dịch, nhìn chữ để dịch). Dịch âm(còn gọi là văn dịch, nghe âm để dịch). Phải như vậy vì chúng tôi thấy các cụ chúng ta ngày xưa Nho học uyên thâm. Thêm nữa Hán tự âm nghe giống nhau nhưng nghĩa lại hoàn toàn khác hẳn.: Cao Sơn cảnh hạng! Đây là vọng dịch kiểu 1, chữlà hạng.

Tại sao gọi hạng? “Núi cao” tức số 9 Sơn ở ngôi cao nhất trong 9 số Lạc thư như đã nói. Nếu dùng văn hóa xếp hạng thì Sơn chúng ta hạng nhất, nhì(người xưa phân hạng chỉ có 2: nhất nhì, tốt xấu). Cao sơn phương Nam! Chúng tôi thêm chữ “phương Nam” vì nói núi là nói phương Tây, núi thiên nhiên. Cũng như Thái Sơn bên Tàu, núi ở đền Hùng Vương không lấy gì làm cao so với Himalaya phương Tây Bắc nhưng lại cao. Cao đây là khoảng độ văn hoá. Hạng, Hán tự cónhưng các cụ chúng ta không mà lại dùng chữthay vì là ngụ ý. Đó là tác giả câu Phú đón lõng người đọc để “ngôn ngoại” văn dịch kiểu 2.

Thánh Gióng trang 9

Các số Hà đồ và Lạc thư. Hà đồ có 10 số, Lạc thư có 9. Trong 9 số Lạc thư thì số 9 ở ngôi cao nhất. Để ứng dụng Ngũ hành tương khắc và Văn hoá. Từ vị trí số thành của Kim phương Tây, người ta chuyển nó về Nam hoán cho 2 số sinh thành của Hỏa. Bạn đọc xem hình 6A và vận hành của Lạc thư hình 7A. Hà đồ vận hành từ trái sang phải theo chiều Ngũ hành tương sinh. Lạc thư vận hành ngược lại theo chiều Ngũ hành tương khắc. Khởi từ Bắc sang Tây vì Thủy khắc Hỏa. Từ Tây sang Nam vì Hỏa khắc Kim. Từ Nam sang Đông vì Kim khắc Mộc. Từ Đông vào giữa Trung ương vì Mộc khắc Thổ. Giữa Trung ương lên Bắc vì Thổ khắc Thủy. Hà đồ của người phương Bắc. Lạc thư. Lạclà vui thích. (tuần phương Nam là thú của các ông vua ngày xưa)Lạc còn là Âm nhạc như Ngũ thanh, Bát âm. Thưlà tiếng thông dụng cho con gái(ngược với thư là hùng, thư hùng). Hỏa Nam sinh sau Thủy Bắc. Sau thuộc Âm(trước thuộc Dương). Đất thuộc Âm(Trời thuộc Dương). Số chẵn thuộc Âm(số lẻ thuộc Dương). Con gái thuộc Âm(con trai thuộc Dương). Lạc thư của người phương Nam.

Người xưa cho là Đông, phương mặt trời mọc(trước) thuộc Dương. Tây, phương mặt trời lặn(sau) thuộc Âm. Thực ra phương Nam gần đường xích đạo nóng thuộc Dương(Xích là màu đỏ thuộc Hỏa, Hỏa thuộc Dương). Ta thấy quẻ lyHậu Thiên bát quái, quẻ KiềnTiên Thiên bát quái, quẻ Kiềnsáu vạch vị Nam. Ta thấy thêm ở 1 cái lễ ngày xưa gọi là lễ cầu Trời. Hàng năm ngày 9 tháng 9 vua tôi phải trai giới 3 ngày, quỳ gối xuống đất gọi là Đàn Nam giao. Ngửa mặt lên trời Nam cầu cho mưa thuận gió hoà dân an quốc tháí. Ý nghĩa “Dương” “Trời” ở con số 9 Lạc thư vậy, nên ngày 9 tháng 9 âm lịch là ngày duy nhất gọi trùng, Trùng cửu.

 

Lại nữa, phương Nam ứng với phương Bắc, Hỏa đối Thủy. Số 9 tượng lão dương Nam ứng với số 6 tượng lão âm Bắc, Sơn đối Thủy. “Voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao”. Sơn tinh Thủy tinh là chuyện triết học. Chủ đề: Cuộc chiến của nguyên khí phương Nam chống sự lấn quyền lãnh thổ của nguyên khí phương Bắc. “Hùng Vương ngành thứ 18”. 18: 1+8=9, Lạc thư vận hành xong 1 vòng , hồi đó sự sống Bắc Thủy đã tràn xuống Nam Hỏa. Cuộc chiến Sơn tinh Thủy tinh còn là cuộc đối đầu văn hoá giữa 2 con số 9 sơn Lão dương với con số 6 Thủy Lão âm. Đây là 1 trong nhiều vấn đề triết học được các nhà Nho diễn hệt chuyện Người. 2 cuốn Nam hoa kinh của Trang Tử, Lĩnh Nam chích quái và có thể là Tam quốc diễn (nghĩa?), Tây du ký… là ví dụ. Bạn đọc xem hình 8A.

Thánh Gióng trang 8

Thơ Văn Phú Lục của ta phàm thể 4 chữ thì 2 chữ “tỏ”, 2 chữ còn lại “mờ”. Lĩnh Nam chích quái thì Lĩnh Nam “tỏ”, chích quái “mờ”. Lại trong 2 chữ “mờ” thì quái là “tỏ”, chữ chích kia phải để cho người đọc suy ngẫm. Mờ tỏ là 2 mặt đối lập mới thành công dụng Văn. “Ý tại ngôn ngoại” là thế. Chúng tôi lấy ví dụ: Trước cổng đền Hùng Vương treo một bức hoành đề 4 chữ. Nếu nhìn mặt chữ mà dịch ngay: Núi cao, cảnh đẹp cứ thế mà đi. Nếu dịch vậy chỉ được 1 nửa câu Phú, mà vì chỉ được một nửa nên văn chẳng có ý tứ gì cả. Cao sơn là núi cao rồi. Chữlà cảnh vật, Không phải cảnh Trời.Chúng tôi dịch: Cao Sơn cảnh hạng.

Ở chuyện Thúc Hốt Hỗn Độn chúng tôi đã nói về con số 9, 9 khiếu. Bạn đọc xem hình 4A. Nguyên số 9 trong Hà đồ là số thành của hành Kim phương Tây. Chúng tôi tóm lược 10 con số Hà đồ.

  • Thuỷ sinh đầu tiên ở Bắc tượng là số 1, số thành là 6.
  • Hoả sinh ở Nam tượng là số 2, số thành là 7.
  • Mộc sinh ở Đông tượng là số 3, số thành là 8.
  • Kim sinh ở Tây tượng là số 4, số thành là 9.
  • Thổ sinh ở Trung ương tượng là số 5, số thành là 10.

Bạn đọc xem hình 5A, vận hành của Hà đồ. Hà đồ khởi từ Bắc sang Đông vì Thuỷ sinh Mộc, Đông sinh Xuân. Tiếp từ Đông sang Nam vì Mộc sinh Hỏa, Xuân sinh Hạ. Từ Nam vào giữa Trung ương vì Hoả sinh Thổ, Hạ sinh Trưởng Hạ. Giữa Trung ương sang Tây vì Thổ sinh Kim, Trưởng Hạ sinh Thu. Từ Tây lại trở về Bắc vì Kim sinh Thuỷ, Thu sinh Đông.

Hà đồ là vòng quay 1 năm. Ngoài 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, 1 năm có thêm 1 mùa nữa gọi là mùa Trưởng Hạ. Trưởng Hạ(thử) tháng 6 âm lịch, ứng phương Tây Nam, quẻ Khôn Hậu Thiên bát quái, chi Mùi trong 12 địa chi.

Thánh Gióng trang 7

Như 4 hành Kim Mộc Thủy Hỏa, Thổ cũng có 2 giai đoạn sinh thành. Giai đoạn sinh là số 5. (5 là lẻ, cơ, dương số gọi số Trời)Giai đoạn thành là số 10. (10 là chẵn, ngẫu, âm số gọi số Đất)Thất khiếu, Hỗn Độn mới có 7 trong 9, còn 2 cái nữa chúng ở đâu ?

Cũng theo Đông y, đầu con người ta thuộc dương Trời, thân thuộc âm Đất. 7 khiếu của Hỗn Độn mà Trang Tử dùng là 2 con mắt trông, 2 tai nghe, 1 miệng ăn, 2 lỗ mũi ngửi đều nằm ở phần đầu. Tức Trang Tử chỉ đề cập đến số 5 dương Trời giai đoạn sinh, không Động gì đến số 10 âm Đất thành Thổ. Cụ thừa biết cơ thể con người có 9 cái lỗ. Nhưng vì dụng con số 7 thành Hoả phương Nam mà bỏ 2 lỗ còn lại trong 9 cái ở phần thân. Như đã nói, nhân vật Hỗn Độn tượng cho số 5 Thổ giai đoạn sinh trước, đầu. (không tượng cho số 10 giai đoạn thành sau, thân)Đây là lẽ thứ 2 Trang Tử dùng thất khiếu.

Vẫn chuyện Hỗn Độn “Người ta đều có 7 khiếu để trông, nghe, ăn, ngửi. Riêng ông này không có ta đục thử xem”. Riêng ngược với chung. Nói riêng vì Hỗn Độn đứng ở số sinh 5 chưa có số 10 thành để gọi “thân chung”. Ông ta vẫn “cô dương”. Trong 5 số sinh Ngũ hành, Hỗn Độn số 5 dương số, số Trời và là ngôi cao nhất nên gọi Ông. “Ông” vì chưa có Bà để âm dương công dụng.

Riêng Ông “này”. Này từ cặp “này nọ” thành ngữ. “Này” hữu hình thuộc âm tức Hỗn Độn vẫn đơn sinh. Vật thuộc âm, dù Hỗn Độn đứng ngôi chí tôn số 5 vẫn là vật, “vật này”. Ông ta còn thiếu vế thứ 2 “nọ” để chấm dứt tình trạng mờ mịt khu giữa. Trang Tử gọi Hỗn Độn, Lĩnh Nam chích quái gọi giặc Ân. “Thúc cùng Hốt mưu trả ân”. Trả ân là trả lại trạng thái bình thường cho Thổ giữa Trung ương. Như đã nói ở trên, biết số 7 Thúc là đã biết số 6 Hốt. Vì cũng như sinh, giai đoạn thành của Ngũ hành, Thủy vào trước Hỏa. Thủy vào trước(đủ 2 số sinh 1 thành 6) Thổ Trung ương không còn yên vị. “Thúc Hốt” chớp nhoáng số 7 thành Hỏa vào theo (đủ 2 số sinh 2 thành 7). Thủy Hỏa cân bằng, số 5 sinh Thổ hết Hỗn Độn. “Mưu” của Trang Tử, “lo liệu” của Thánh Gióng Lĩnh Nam chích quái từ tính triết học này.

Thánh Gióng trang 6

“Hỗn Độn đối đãi họ rất tử tế”. Tử tế là có trước sau như đối đãi. Tử tế còn là cúng sự chết. Mà cúng sự chết bao giờ cũng đủ lễ bộ nọ kia vì như thế mới “mồ yên mả đẹp”. Thực thế, nhân vật Hỗn Độn Thổ Trung ương yên vị. Ông ta còn chờ(đãi) Hốt, hành Thủy phương Bắc vào giai đoạn thành 6 với câu: “Đất lấy số 6 mà làm cho thành Thủy” Kinh dịch. “Thúc cùng Hốt mưu trả ân Hỗn Độn”. Như đã nói ânlà chính giữa. Ân còn là to lớn ý số 5. Mưulà toan tính, lo liệu. Chuyện Thánh Gióng có câu: “Ta không lo liệu sợ chúng bắn đạn đá”. Trang Tử dùng Chữ, (mưu toan)Lĩnh Nam chích quái dùng Nôm(lo liệu). Cả hai đều dùng 2 con số 5 sinh Thổ và 7 thành Hoả từ ngạn ngữ “năm lo bảy liệu”. Lo là lo nghĩ. Theo Đông y Tỳ(lá lách) ứng với số 5 giữa Trung ương thuộc Thổ, chí là lo(nghĩ). Liệulà toan tính, lo liệu. là cháy lan, tim con người ứng với số 7 thành Hoả phương Nam, chí là vui(lạc). Ta đã biết 2 con số: 5 sinh Thổ và 7 thành Hoả. Vậy trước con số 7 thành Hoả đã có số 6 thành Thuỷ. Vì như giai đoạn sinh, giai đoạn thành của Ngũ hành cũng được bắt đầu từ hành Thuỷ. “Thúc cùng Hốt nói rằng: Người ta đều có 7 khiếu để trông nghe, ăn, ngửi. Riêng Ông này không có ta đục thử xem. Ngày đục một khiếu. 7 ngày mà Hỗn Độn chết”. Thử là nóng. Tháng nóng thử là tháng 6 âm lịch, tháng cuối hè ứng phương Tây Nam thuộc Hỏa. Ngày thuộc dương(đêm thuộc âm). Hỏa thuộc dương(Thủy thuộc âm). Số 7 thuộc dương(số 6 thuộc âm). Các khái niệm:“liệu”, “thử”, “7 ngày” Trang Tử cho chúng ta biết đặt vấn đề của cụ là con số 7 thành Hỏa. Bạn đọc xem hình 2A.

“Người ta đều có 7 khiếu”. 9 khiếu chứ! Đông y cho rằng cơ thể con người có 9 cái lỗ. Cửu khiếu nhưng Trang Tử nói thất vì 2 lẽ. Thứ nhất: Hướng người đọc vào số 7 thành Hoả Thúc.

 

Thất khiếu. Khiếu không chỉ lỗ mà còn là kiện, khiếu kiện. Như đã nói, Ngũ tạng con người thì Tỳ(lá lách) thuộc Thổ ứng số 5 giữa Trung ương. Vậy nên khi Tỳ vận hoá kém phải dùng phép chữa gọi là kiện Tỳ. Hỗn Độn Thổ đứng số 5 là dương số, ngôi cao nhất trong 5 số sinh của Ngũ hành bế tắc lộn xộn nên Trang tử dùng khiếu. Đó là lẽ thứ nhất. Lẽ thứ 2 trong Hà đồ 5 là số sinh Thổ, 10 là số thành thổ.Bạn đọc xem hình 3A.

Thánh Gióng trang 5

Kinh dịch nói “Nhất Âm nhất Dương chi vị đạo”. 1 sinh 1 thành nên đạo. Ngũ hành mới sinh, giữa Trung ương chưa có hiện tượng gì. Bạn đọc xem hình 1A. Trong 5 số sinh của Ngũ hành số 5 ngôi cao nhất. Hẳn bạn đọc nhớ 10 can thuyết Can Chi, Giáp vị trí số 1 cũng ngôi cao nhất. Chúng ta sẽ gặp chữ “giáp” tức số 5 sinh Thổ ngôi cao nhất chuyện Đổng Thiên Vương tức Thánh Gióng dòng 7 trang 80 “phía Tây Bắc giáp nước Thi La Quỷ” và  dòng 17 trang 86 “quân Ân cởi giáp chạy trốn”.

Vẫn Hỗn Độn: “Thúc cùng Hốt thường gặp nhau trên đất của Hỗn Độn”. Thườnglâu dài mãi mãi. Bạn đọc nhìn sơ đồ giai đoạn sinh của 2 hành Thủy Hỏa hình 1A. Thủy có tính thấm nhuận xuống phương Nam. Hỏa có tính hun bốc lên phương Bắc. 2 hành gặp nhau giữa Trung ương Thổ nên gọi thường. “Hỗn Độn đãi họ rất tử tế”. Đãilâu dài mãi mãi. Bạn đọc nhìn sơ đồ giai đoạn sinh của 2 hành Thủy Hỏa hình 1A. là chờ đợi, xử với người như đối đãi. Trong Lạc thư(ngũ hành tương khắc) Thổ khắc Thủy. Hỗn Độn khắc Hốt nên “đối”. Còn trong Hà đồ(Ngũ hành tương sinh) Hỏa sinh Thổ. Thúc là mẹ Hỗn Độn nên đãi. Cả 2 trường hợp khắc: Hỗn Độn khắc Hốt, (Thổ khắc Thủy)sinh: Thúc sinh Hỗn Độn(Hỏa sinh Thổ) là 2 mặt Âm Dương tương phản. Dịch có câu “âm dương đối đãi nhau”, Trang Tử lấy từ ý này mà dùng “đãi”.

Thánh Gióng trang 4

Chúa ngôi cao như vua thường chiếm cứ một vùng đất. Bể đây không phải nơi hội tụ sông ngòi mà bể sinh ra muôn loài. Thúc hành Hỏa, Hốt hành Thủy. Hỗn Độn hành Thổ. Khulà vùng đất được chia ra. Khu còn là phần thân thể xác thịt. Trong con người thân thuộc âm Thổ, đầu thuộc dương Trời. Thuỷ sinh đầu tiên ở phương Bắc số 1. Hỏa sinh ở phương Nam số 2. Mộc sinh ở phương  Đông số 3. Kim sinh ở phương Tây số 4. Thổ sinh ở Trung ương số 5. Chúng ta chú ý con số 5. Đây là số của chữ Ngũ lĩnh, nó sẽ là số của nhân vật Hỗn Độn và giặc Ânchuyện Thánh Gióng.

Vẫn chuyện Chúa bể Nam, Chúa bể Bắc, Chúa khu giữa. Hốt là nhanh chóng lấy ý từ 2 chữ Thúc HốtHốt là anh Chú, Trang tử không gọi Bác vì có Thúc thì trước đó đã có Bác. Bác là số 1 sinh thủy tại Bắc chếch Tây khoảng 36 độ phương Tây Bắc. Thúc là số 2 sinh Hỏa tại Nam chếch Đông cũng khoảng 36 độ hướng đảo Côn lôn phương Đông Nam. Bạn đọc chú ý số 2 là chẵn, ngẫu, âm số, Trang tử không gọi Tỉ mà Thúc vì tuy sinh sau Thủy nhưng Hỏa thuộc dương. Chữ Thúc cũng là nhanh chóng lấy ý từ 2 chữ Thúc Hốt. Hỗn Độnlà bầu có chẵn lẻ, Âm Dương còn lộn xộn. Các con số 1, 2, 3, 4, 5 mở đầu cho giai đoạn sinh của 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Bạn đọc xem hình A.

Thánh Gióng trang 3

Chúng tôi đang có trong tay 7 cuốn sách quan trọng cho việc giải mã Lĩnh Nam chích quái.

1-Kinh dịch, bản dịch của Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Văn học.

2-Mai hoa dịch, tác giả Thiệu Khang Tiết, bản dịch của ông Sơn Tùng, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.

3-Nam hoa kinh, tác giả Trang Tử, bản dịch của Nhượng Tống, Nhà xuất bản Văn học, trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.

4-Hoàng đế nội kinh, bản dịch của Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Y học.

5-Hải Thượng Lãn Ông và tác phẩm Lãn Ông tâm lĩnh, bác sỹ Nguyễn Văn Thang giới thiệu, Nhà xuất bản Y học.

6-Tự điển Hán Việt, tác giả Thiều Chửu, Nhà xuất bản Thanh niên.

7-Tân đính Lĩnh Nam chích quái, tác giả Vũ Quỳnh, Nhà xuất bản Khoa học xã hội 1993.

Ngoài ra còn có Đạo đức kinh, Kinh dịch đạo người quân Tử của Nguyễn Hiến Lê. Đại việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi. Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan. Dịch học nhập môn của Lý Diên… Những sách trên tuy hay nhưng tạm thời chúng tôi chưa dùng đến. Mời bạn đọc chuẩn bị Kinh dịch, Mai hoa dịch, Nam hoa kinh, Lĩnh Nam chích quái và Tự điển Hán Việt theo dõi quá trình giải mã Lĩnh Nam chích quái(Từ đây chúng tôi chỉ nói tiêu đề sách).

Lĩnh Nam chích quái viết: “Hồi 6, thời Hùng Vương ngành thứ 6” trong chuyện: “Các bô lão đến sân rồng cấp báo, Đổng Thiên Vương vây đánh bại giặc Ân”. Đúp số 6, tác giả chuyện có ngụ ý. Con số 6 làm chúng tôi nghĩ tới con số “7 ngày”, “7 Khiếu” trong chuyện Thúc, Hốt, Hỗn Độn chương VII Nam hoa kinh của Trang Tử.

Trang Tử là một Triết gia. Nhưng không giống nhà giảng đạo, những tư tưởng triết học Đông phương được cụ hóa văn. Như: Đạo chích(Lửa, chương XXIX), Chim bằng(Nước, chương I), Bào đinh mổ trâu(Cây, chương III)… Ba mươi ba chương trong Nam hoa kinh chương nào cũng đẹp như chương. Vì thế hai nhà dịch bình Nhượng Tống và Lâm Tây Trọng họ chỉ tiêu văn mà chưa muốn đào xới phần gốc. Nam hoa kinh của Trang Tử là sách triết. Mời bạn đọc câu chuyện Hỗn Độn trang 95 chương VII trước khi vào chuyện Thánh Gióng.

Chúa bể Nam là Thúc. Chúa Bể Bắc là Hốt. Chúa khu giữa là Hỗn Độn. Thúc cùng Hốt thường gặp nhau trên đất của Hỗn Độn. Hỗn Độn đãi họ rất Tử tế. Thúc cùng Hốt mưu trả ân Hỗn Độn, nói rằng: “Người ta đều có 7 khiếu để trông, nghe, ăn, ngửi. Riêng ông này không có. Ta đục thử xem. Ngày đục 1 khiếu, 7 ngày mà Hỗn Độn chết”.

Tháng Mười Hai 2024
H B T N S B C
 1
2345678
9101112131415
16171819202122
23242526272829
3031