Phù Đổng Thiên Vương
Đổng Thiên Vương trang 22
“Chim bằng”. Bằng từ thành ngữ “bằng ngang phải lứa”. Bằng, bình, biền nhưThủy bình, nước bằng phẳng. Nghĩa là hành Thủy tuy sinh trước nhưng cũng chỉ ngang bằng với 4 hành Kim, Mộc, Hỏa, Thổ còn lại. Triết lý này Trang Tử đã khẳng định ở chương II Tề vật luận: 5 vật Kim Tây số 4, Mộc Đông số 3, Thủy Bắc số 1, Hỏa Nam số 2 và Thổ Trung ương số 5 đều bằng nhau. Trong 5 hành Ngũ hành thì 2 hành Thủy Hỏa quan trọng nhất cho sự sinh hóa vạn vật. Chúng như 2 cái “các”, ao đo nhau. Bạn đọc xem dòng 6 trang 29: “…Bể nam là ao Trời…” và dòng 15, 16 trang 30 “…phía Bắc miền hiếm cây…” có bể thẳm tức ao Trời(1)…” Đáp ý “bằng”, “ao” của Trang Tử, tác giả chuyện Đổng Thiên Vương thuận lý dùng “các” cho đề chuyện “Các bô lão đến sân rồng cấp báo, Đổng Thiên Vương vây đánh bại giặc Ân”. Chúng tôi tiếp tục:
“Hồi 6”… “Thời (thì) Hùng Vương ngành(nhánh, chi) thứ 6”. Đúp số 6. Sơ ý lặp tự chăng? Không phải! Đây là phép xướng đề. Mục đích hướng người đọc vào vấn đề tác phẩm (như số VII, 7 khiếu, 7 ngày chuyện Thúc Hốt, Hỗn Độn của Trang Tử). Bạn đọc xem hình 4B. Trong hình, 6 là số thành hành Thủy. Lặp con số 6 nghĩa là khi hành Thủy phương Bắc bắt đầu vào giai đoạn thành 6 thì hiện tượng gì sẽ xảy ra với 4 hành Kim, Mộc, Hỏa, Thổ vẫn ở giai đoạn sinh. Trực tiếp là Hỏa vì Thủy khắc Hỏa và Thổ vì Thổ khắc Thủy. Chúng ta dễ nhận phép xướng đề ở “Hồi 1 họ Hồng bàng đầu tiên, đầu tiên là số 1. Hồi 2 thời Hùng Vương ngành thứ 2 chuyện Lạc Long Quân diệt Ngư tinh. Hồi 3 thời Hùng Vương ngành thứ 3 chuyện Tiên Dung và Chử Đồng Tử, đầm(đoài). Hồi 4 thời Hùng Vương ngành thứ tư chuyện trầu cau anh em Tân Lang. Hồi 5 thời Hùng Vương ngành thứ 5 chuyện dưa hấu An Tiêm. Hồi 7 thời Hùng Vương ngành thứ 7 chuyện cáo 9 đuôi. Hồi 8 thời Hùng Vương ngành thứ 8 chuyện Quỷ Xương Cuồng. Hồi 9 thời Hùng Vương ngành thứ 9 chuyện Lang Liêu và bánh trưng…”
Chú thích:
(1)Đọc thì ao là hồ. Chữ hồ 2 tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc Trung quốc từ “các” ao này.
Đổng Thiên Vương trang 21
“Các bô lão đến sân rồng cấp báo”…Cáclà cái ao, cái hộc, cái đấu dùng để đo cho bằng. Chữ này trong dân gian vẫn còn như mỗi khi nhận đồ vật người ta thường bảo nhau phải “ao lại”, tức phải đo lại cho bằng đúng. Hành Hỏa phương Nam sinh sau là vật thứ 2 đo bằng hành Thủy sinh trước vật thứ nhất. Bạn đọc xem chương I Tiêu dao du Nam Hoa Kinh. Đây là chương Trang Tử bàn về số 1 sinh của hành Thủy khởi đầu vũ trụ. “Bể Bắc có loài cá, tên nó là côn…hóa mà làm loài chim, tên nó bằng…”
Cá thuộc âm, Thủy thuộc âm nên ví cá(cá còn đọc cả, nghĩa Bắc với hành Thủy chỉ là phương lớn, hành lớn). Chim thuộc dương. (1)Là lẻ, cơ, dương số nên số 1 sinh Thủy tác giả ví chim, Chim bằng.
Trong tự nhiên có loài chim lớn thế không mà dòng 5 trang 29 nói: “…Cánh của nó như đám mây rũ ngang trời. Loài chim ấy bể động thì dời sang bể Nam…”Dòng 9: “đi 6 tháng mới nghỉ”. Bạn đọc xem hình 3B. Hà đồ là vòng quay của 1 năm: Đông sinh Xuân, Xuân sinh Hạ, Hạ sinh trưởng Hạ, trưởng Hạ sinh Thu, Thu sinh Đông.Từ Bắc sang Nam tức từ Đông sang Hè nửa năm, 6 tháng. Chim bằng là số 1 sinh của hành Thủy!
Chú thích:
(1)Dương có tính thượng thăng (âm có tính hạ giáng) mà lên với người Thiên cổ. Gà thuộc bộ điểu, chim. Tục cúng gà trống non chưa đạp mái tức thuần dương (số 1 sinh của hành Thủy thuần dương, chưa phối ngẫu với âm số 6 thành) từ tính triết học này.
Đổng Thiên Vương trang 20
Bạn đọc cùng chúng tôi giở trang 80 Tân đính Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh. Hồi 6 “Các bô lão đến sân rồng cấp báo, Đổng Thiên Vương vây đánh giặc ân”.
Đề chuyện gồm 2 câu, mỗi câu 8 chữ thểBiền ngẫu dùng cho văn chương thi cử ngày xưa. Thể văn Nôm này rất khó là phải bàn được ý thứ 2. Muốn vậy, thí sinh phải biết xuất xứ đề. Các nhà Nho ở Hà tĩnh truyền kể Nguyễn Du(tác giả Truyện Kiều sau này) thi cử gặp phải thể Biền ngẫu chuyện Cao Biền và Tô Lịch: “Cậy thế đô hộ Cao Biền yểm trấn, sẵn tính anh linh Tô Lịch phá tan” ở cuốn Lĩnh Nam… Nhưng không phải Lĩnh Nam chích quái mà là Lĩnh Nam trích quái lục(?) Cụ bị liệt điểm. Nghe nói 3 năm sau Nguyễn Du trở lại Kinh kỳ để thi tiếp thì được miễn thí. (1)Giờ, 2 câu đề chuyện Đổng Thiên Vương chúng tôi sẽ bàn trước 2 chữ đó là “cấp” và “các” câu nhất.
Chuyện Thúc Hốt Hỗn Độn Nam Hoa Kinh. Con số 5 sinh của hành Thổ giữa Trung ương Trang Tử “văn hóa” bằng nhân vật Hỗn Độn, Tỳ(lá lách), tạng thứ 5 Ngũ tạng của Người. Chuyện Đổng Thiên Vương cũng vậy.
Chú thích: (1)Chúng tôi sẽ chép lại đáp án của Nguyễn Du cuối phần này.
(2)Thưđất lầy,bại hoại.
(3)Tuy Tỳ và Vị đều thuộc Thổ nhưng Tỳ thuộc Ngũ tạng. Ngũ tạng thuộc Dương(trước), Trang Tử ví với số 5 sinh Thổ là đúng. Nhưng Vị thuộc Lục phủ, Lục phủ thuộc Âm(sau). Sinh thuộc Dương, thành thuộc Âm. Vị ứng với số 10 thành Thổ, Đổng Thiên Vương ví vậy là gượng ép.
Thánh Gióng trang 16
Trở lại với nhân vật Hỗn Độn. 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì 2 hành Thủy Hỏa quan trọng nhất. Thủy sinh trước ngôi Đế, Hỏa sinh sau ngôi Vương. Chương VII Ứng Đế Vương Nam hoa kinh của Trang Tử bàn triết lý Thủy Hỏa.
Chúa bể Nam là Thúc, chúa bể Bắc là Hốt, chúa khu giữa là Hỗn Độn. Thúc cùng Hốt thường gặp nhau trên đất của Hỗn Độn. Hỗn Độn đối đãi họ rất tử tế. Thúc cùng Hốt mưu trả ân Hỗn Độn nói rằng: Người ta đều có 7 khiếu để trông, nghe, ăn, ngửi. Riêng ông này không có. Ta đục thử xem. Ngày đục 1 khiếu. 7 ngày mà Hỗn Độn chết.
Chúng tôi tóm lược: Hai hành Thủy Hỏa trong 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đang ở giai đoạn sinh. Thủy Hốt số 1 Bắc thấm nhuận xuống Nam. Hỏa Thúc số 2 Nam hun bốc lên Bắc. 2 hành đồng thời gặp nhau ở giữa Trung ương. Thổ lúc này vẫn ở giai đoạn sinh 5.
Giai đoạn thành của Ngũ hành được bắt đầu bằng câu “Đất lấy số 6 mà làm cho thành Thủy” Kinh dịch. Ở ngôi cao nhất trong 5 hành giai đoạn sinh đơn cực. Trong lúc đó Thủy có đầy đủ sức mạnh Âm Dương sinh thành nên giữa Trung ương lộn xộn. Hiện tượng này Trang Tử gọi bế tắc, Đổng Thiên Vương ví “giặc ân” “manh tâm muốn thôn tính các nước xung quanh”.
Muốn giải quyết tình trạng trên, hành Hỏa phải lập tức vào giai đoạn thành. Thế là “7 khiếu”, “7 ngày”, chương VII Ứng Đế Vương Nam hoa kinh của Trang Tử ra đời tượng cho hành Hỏa phương Nam cũng đầy đủ sức mạnh để “kẻ kia 9 lạng người này nửa cân”.”Gióng gánh cân bằng”. Chim bằng bể Bắc được cái “các” ao Nam đo ngang. Mọi “bế tắc” “manh tâm” giữa Trung ương Thổ hết. “Đục 7 ngày mà Hỗn Độn chết”, chữ “đục” Trang Tử lấy từ thành ngữ “cưa dứt đục thông”. Bạn đọc xem hình 14A. (Kỳ tiếp: Chuyện Đổng Thiên Vương)
Thánh Gióng trang 15
Thưa bạn đọc! Như đã nói, do chúng tôi đọc sai luật trắc bằng câu phú “Cao Sơn cảnh hạng” thành “Cao Sơn cảnh hành” mà các nhà Nho “chơi chữ nghịch âm” hành thành Ngọc.
Hà đồ Mai hoa dịch nói: Thổ sinh Kim. Thổ vô hình giữa Trung ương sinh Kim Tây. Tương tự Thổ hữu hình 4 phương phụ đều sinh được Ngọc. Trong 4 phương phụ: Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, phương Đông Nam thấp. Lại là phương đối Tây Bắc quẻ kiền Trời nên triết học lấy điển hình làm Thổ. Đông Thổ đối Tây Thiên, hữư hình đối vô hình, trái đối phải, Ngọc đối Vàng… Ngạn ngữ: “ngôn vi Ngọc, ngậm vi Kim”. Lời nói là Ngọc, im lặng là vàng phải chăng dựa vào triết lý 2 phương Âm Dương, Đông Tây, trái phải…? Chúng tôi phân vân và thật sự hoang mang về âm “hành” trong Cao Sơn cảnh hạng. Tại sao Ngọc mà thừ người trước chữ Ngọc được tra từ âm “hành” trong cuốn Tự điển Hán Việt của cố nhà sư Thiều Chửu.Ngọc này là Ngọc đeo gồm chữ Ngọc, bên cạnh thêm chữ hành thì giật nẩy người: “Cao Sơn cảnh Ngọc… hành ôhô Nhạc Sơn. Do ngươi đấy thôi. Cố tình đọc sai luật trắc bằng Phú nhưng… cũng thuận ý chúng ta! Đây là cao văn hóa, dụng số 9 Lạc thư chứ Thái gì kia mà gọi Sơn, Cao Sơn. Kim Sơn! Hymalaya…”Chúng tôi nghe như có tiếng từ rất xa những dãy non xứ Thục xuyên. Xen lẫn là tiếng rền như sấm của âm Hùng với 18 thời, ngành(nhánh chi) vương, vượngtriết học: “Cao Sơn cảnh hạng”, “Cao Sơn cảnh Ngọc”! Như trong nắng sớm mưa chiều có một cụ già đầu trời chân dép cỏ. Cụ chống cái gậy hình “một chiếc kim châm với lọ cồn”. Cổ cụ đeo lủng lẳng hai quả hồ lô dược tích hệt danh y Lý Cảo đời Tống. Gương mặt thoáng nụ cười tinh nghịch, cụ vừa đi vừa lẩm bẩm: “Ngọc được gia hành là nhanh rõ Ngọc”, “Ngọc được gia hành là nhanh rõ Ngọc”…
Thánh Gióng trang 14
Phương Tây Bắc quẻ Kiền Trời, phương đối là Đông Nam quẻ tốn. Bạn đọc xem hình 11A. Trong Hậu Thiên bát quái Mai hoa dịch, 2 quẻ Kiền và đoài Thuộc Kim vì ở Tây Kim. 2 quẻ chấn và tốn thuộc Mộc vì ở Đông Mộc. Bạn đọc xem hình 12A.
Đông Tây tức Âm Dương, Trời Đất. Tây Kim khắc được Đông Mộc, Kim khắc Mộc. Nếu ngược lại Mộc không khắc được Kim. Không như 2 hành Thủy Hỏa, Kim và Mộc phải một mất một còn. Kẻ còn đó là Dương Kim Trời. Điều này được chứng minh ở một cái lễ Nhà chùa, lễ trùng tu gọi “phạt Mộc”. Phạt không cho Mộc lấn lướt quyền cao chức trọng của Dương Kim Trời. Bởi Phật giáo với nền tảng triết học Đông phương coi Mộc là vật nhưng phải giữ 1 cực để dựng Âm Dương Đất với Trời mà thôi.
Trời Đất ở 2 ngôi định vị. Trời đứng ở Tây Bắc, Tây Thiên thì Đất nằm ở Đông Nam, Đông Thổ. Trời Thuộc dương Kiền, Đất Thuộc âm Khôn. Cũng như Mộc với Kim, Đất cũng chỉ là vật hữu dụng không thể so với Trời. Phương Đông Nam thuộc Thổ! Bạn đọc khoan bất bình vì trong Hà đồ, Thổ ứng giữa Trung ương mà đây phương Đông Nam. Có điều gì chưa ổn chăng ?
Một năm có 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông. Mùa Xuân thuộc Mộc, Hè thuộc Hỏa, Thu thuộc Kim, Đông thuộc Thủy. Trái đất quay trên một trục nghiêng khoảng 23 độ nên cứ 4 vòng hết 1 chu kỳ lại về ban đầu. 4 vòng với 4 tháng cuối của mỗi mùa đó là tháng 3 Thìn, tháng 6 Mùi, tháng 9 Tuất, tháng chạp Sửu thuộc Thổ, (có sách nói chỉ 18 ngày cuối của 4 tháng đó mới thuộc Thổ)Chúng đều ứng giữa Trung ương. Bạn đọc xem hình 13A.
Vũ trụ bên trái Đông thuộc Thủy hữu hình, biển cả. (bạn đọc không nhầm Thủy vô hình tức “nước trong nguồn” khởi ở Tây Bắc)Bên phải Tây thuộc Kim vô hình. Con người là tiểu vũ trụ. Cũng như vũ trụ Mẹ, bên trái là đường lối của Huyết, Huyết hữu hình thuộc Âm. Bên phải là đường lối của Khí, Khí vô hình thuộc Dương. Nước hữu hình biển cả cũng như Huyết trong con người ta với Mộc cây và Thổ hữu hình nữa, tất cả chỉ là vật hữu dụng. (Bạn đọc xem thang dược Tứ vật bổ Huyết và bài Tứ quân tử thang bổ Khí trong cuốn Hải Thượng lãn ông tâm lĩnh. Bác sỹ Nguyễn Văn Thang giới thiệu. Nhà xuất bản Y học)Chữ cảnh mà vật trên bức hoành trước cổng đền Hùng Vương nguyên ý “vật” hữu dụng.
Thánh Gióng trang 13
Nói Đông ngoài chính Đông có thêm Đông Nam. Tương tự Tây, ngoài chính Tây còn thêm Tây Bắc. Trong Hậu Thiên bát quái hai quẻ kiền Trời và đoài Trạch thuộc Kim vì Kim sinh thành tại Tây. Bạn đọc xem hình 10A.
Vũ trụ có 4 phương chính Đông Tây Nam Bắc. Âm Dương là đối xứng. Đông đối Tây, Nam đối Bắc. Hai phương Bắc Nam tuy đối xứng nhưng người xưa không cho là Âm Dương. Vì 2 hành Thủy Hỏa, tuy Thủy dập tắt Hỏa nhưng Hỏa có khả năng biến Thủy thành dạng hơi. Như mặt trời là một thứ lửa đốt nóng trái đất. Hơi nước ở các sông ngòi, hồ ao, biển cả bốc lên cao. Ở trên cao hơi nước gặp lạnh ngưng thành nước rơi trở về trái đất. Chu trình này cứ diễn năm này qua năm khác. Thêm nữa “Âm trung chi Dương, Dương trung chi Âm”. Tuy sinh trước, số 1 cơ, Dương nhưng Thủy thuộc Âm. Sinh sau, số 2 ngẫu, Âm nhưng Hỏa lại thuộc Dương. Nghĩa là Thủy thì trong Âm có Dương, Hỏa thì trong Dương có Âm. 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì 2 hành Thủy Hỏa quan trọng nhất cho sự sinh hoá vạn vật. Là 2 thứ “kỳ phùng địch thủ”.
2 phương Đông Tây mới biểu đạt cho Âm Dương. Phương Đông mặt trời mọc người xưa đọc trước. Phương Tây mặt trời lặn đọc sau. “Đấng Thánh nhân quay mặt về phương Nam trị vì thiên hạ”. Phía tay trái đọc trước, tay phải đọc sau. Như “tả dực hữu dực”, “Đông đào Tây liễu”. “Xuân Thu”: Mùa xuân ứng phương Đông bên trái, mùa thu phương Tây bên phải. “Ba thu”: số 3 sinh Mộc bên trái Đông, mùa thu ứng bên phải Tây. Ba Thục: số 3 sinh Mộc bên trái Đông. Thục là chín, đun chín, đồ chín đồng âm với chín, cửu, số 9 thành Kim phương Tây bên phải… Quan niệm trước sau ở đây chỉ đơn thuần dựa theo phương mọc lặn của mặt trời. Thực ra Trời tức Dương mới tại Tây, Tây Thiên.
Thánh Gióng trang 12
Trước quẻ Thiên Trạch Lý là quẻ Địa thiên thái. Hai quẻ thì Thái đọc trước Lý đọc sau; Đọc từ phải sang trái theo chiều vận hành của Lạc thư. Thái đọc trước; Người phương Bắc lấy quẻ Thái làm phương vị bởi họ đứng ở phương Bắc Thủy sinh trước nên phải trước. Lý đọc sau; Lĩnh Nam phương Hỏa sinh sau Bắc Thủy phải chấp nhận lấy quẻ Lý làm phương vị. Dễ nhận thấy chữ Lý có trong danh gọi các triều đại phong kiến nước ta như Lý Nam Đế, Lý Thái Tổ, Lý Công Uẩn… Đặc biệt trong dân ca Lý rất nhiều, điệu hát này tập trung chủ yếu ở Trung Nam bộ. Rõ càng đi sâu vào phương Lý thì điệu Lý nở rộ xuân bông. Miền Bắc có duy nhất Lý quán dốc còn Trung Quốc thì tuyệt nhiên không.
Nói tới Lý, chúng tôi dừng lại đôi điều về họ Lý Long Tường. Họ Lý, tên Lý người phương Bắc có. Nhưng Lý Long Tường là… 1 họ lấy ý từ chữLý dép quẻ Thiên Trạch Lý trùng quái phương Đông Nam. Long là rồng tượng cho hành Hỏa cũng Đông Nam. Trong kiến trúc cổ có 1 kiểu gọi là “thành quách”. Thành ở trong, quách ở ngoài. Thành còn gọi tường tức trong. Như đã nói, Hỏa sinh sau, Âm. Số 2 là ngẫu, số chẵn, Âm. Phương Đông Nam thấp, Âm. Trong thuộc Âm(ngoài thuộc Dương). Dù phương Nam nóng, sáng(phương Bắc lạnh tối) chúng ta vẫn nói vào Nam tức đi vào trong tường, thành. “Cây”, “hoa” là tượng hình vật 2 quẻ chấn và tốn trong Hậu Thiên bát quái Mai hoa dịch. Quẻ chấn chính Đông, quẻ tốn Đông Nam. Sơn là số 9 Lạc thư cũng Đông Nam. Hoa Sơn là hiệu của họ Lý Long Tường. Vậy Lý Long Tường là Lý của người phương Nam.
Phương Đông Nam hướng quẻ Lý là biển. (Phật giáo gọi Nam hải)Ngoài đó cóCôn sơn. Sơn là số 9 Lạc thư. Côn là côn Ngọc anh emlấy ý từ 2 hành Thủy Hỏa Thúc Bá của Trang Tử. Cônlà hỗn diệu rực rỡ chói lọi vì Đông Nam phương mặt trời mọc nóng sáng.Côn là cá côn. Cá còn đọc cả, đại nghĩa Nam Hỏa cũng là phương lớn, hành lớn đối trọng ngang bằng với Bắc Thủy.
Tương truyền ngoài Nam hải có 3 hòn đảo Tiên. (3 là số sinh của hành Mộc bên trái Đông)Trong đó có một hòn gọi là Châu dinh, nhà Ngọc. Có cả Ngọc trai, những đứa con của Mỵ Châu, vùng đất Ngọc còn ngủ say mộng mị trong truyền thuyết An Dương Vương. Lại có cả Ngọc hành, 1 loài thảo dược bổ dương tráng vật… Ôi Lĩnh Nam ta nhiều Ngọc quá! Ngọc nào các nhà Nho văn dịch cho 4 âm “Cao Sơn cảnh hành” đây?
Thánh Gióng trang 10
Miên man quá xin lỗi bạn đọc! Chúng tôi muốn về với “ông Hỗn Độn” nhưng đang dở dang 4 chữ Cao Sơn cảnh hành trên bức hoành trước cổng đền Hùng Vương.Chúng tôi dịch 2 kiểu: Dịch chữ(còn gọi là vọng dịch, nhìn chữ để dịch). Dịch âm(còn gọi là văn dịch, nghe âm để dịch). Phải như vậy vì chúng tôi thấy các cụ chúng ta ngày xưa Nho học uyên thâm. Thêm nữa Hán tự âm nghe giống nhau nhưng nghĩa lại hoàn toàn khác hẳn.: Cao Sơn cảnh hạng! Đây là vọng dịch kiểu 1, chữlà hạng.
Tại sao gọi hạng? “Núi cao” tức số 9 Sơn ở ngôi cao nhất trong 9 số Lạc thư như đã nói. Nếu dùng văn hóa xếp hạng thì Sơn chúng ta hạng nhất, nhì(người xưa phân hạng chỉ có 2: nhất nhì, tốt xấu). Cao sơn phương Nam! Chúng tôi thêm chữ “phương Nam” vì nói núi là nói phương Tây, núi thiên nhiên. Cũng như Thái Sơn bên Tàu, núi ở đền Hùng Vương không lấy gì làm cao so với Himalaya phương Tây Bắc nhưng lại cao. Cao đây là khoảng độ văn hoá. Hạng, Hán tự cónhưng các cụ chúng ta không mà lại dùng chữthay vì là ngụ ý. Đó là tác giả câu Phú đón lõng người đọc để “ngôn ngoại” văn dịch kiểu 2.
Thánh Gióng trang 9
Các số Hà đồ và Lạc thư. Hà đồ có 10 số, Lạc thư có 9. Trong 9 số Lạc thư thì số 9 ở ngôi cao nhất. Để ứng dụng Ngũ hành tương khắc và Văn hoá. Từ vị trí số thành của Kim phương Tây, người ta chuyển nó về Nam hoán cho 2 số sinh thành của Hỏa. Bạn đọc xem hình 6A và vận hành của Lạc thư hình 7A. Hà đồ vận hành từ trái sang phải theo chiều Ngũ hành tương sinh. Lạc thư vận hành ngược lại theo chiều Ngũ hành tương khắc. Khởi từ Bắc sang Tây vì Thủy khắc Hỏa. Từ Tây sang Nam vì Hỏa khắc Kim. Từ Nam sang Đông vì Kim khắc Mộc. Từ Đông vào giữa Trung ương vì Mộc khắc Thổ. Giữa Trung ương lên Bắc vì Thổ khắc Thủy. Hà đồ của người phương Bắc. Lạc thư. Lạclà vui thích. (tuần phương Nam là thú của các ông vua ngày xưa)Lạc còn là Âm nhạc như Ngũ thanh, Bát âm. Thưlà tiếng thông dụng cho con gái(ngược với thư là hùng, thư hùng). Hỏa Nam sinh sau Thủy Bắc. Sau thuộc Âm(trước thuộc Dương). Đất thuộc Âm(Trời thuộc Dương). Số chẵn thuộc Âm(số lẻ thuộc Dương). Con gái thuộc Âm(con trai thuộc Dương). Lạc thư của người phương Nam.
Người xưa cho là Đông, phương mặt trời mọc(trước) thuộc Dương. Tây, phương mặt trời lặn(sau) thuộc Âm. Thực ra phương Nam gần đường xích đạo nóng thuộc Dương(Xích là màu đỏ thuộc Hỏa, Hỏa thuộc Dương). Ta thấy quẻ lyHậu Thiên bát quái, quẻ KiềnTiên Thiên bát quái, quẻ Kiềnsáu vạch vị Nam. Ta thấy thêm ở 1 cái lễ ngày xưa gọi là lễ cầu Trời. Hàng năm ngày 9 tháng 9 vua tôi phải trai giới 3 ngày, quỳ gối xuống đất gọi là Đàn Nam giao. Ngửa mặt lên trời Nam cầu cho mưa thuận gió hoà dân an quốc tháí. Ý nghĩa “Dương” “Trời” ở con số 9 Lạc thư vậy, nên ngày 9 tháng 9 âm lịch là ngày duy nhất gọi trùng, Trùng cửu.
Lại nữa, phương Nam ứng với phương Bắc, Hỏa đối Thủy. Số 9 tượng lão dương Nam ứng với số 6 tượng lão âm Bắc, Sơn đối Thủy. “Voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao”. Sơn tinh Thủy tinh là chuyện triết học. Chủ đề: Cuộc chiến của nguyên khí phương Nam chống sự lấn quyền lãnh thổ của nguyên khí phương Bắc. “Hùng Vương ngành thứ 18”. 18: 1+8=9, Lạc thư vận hành xong 1 vòng , hồi đó sự sống Bắc Thủy đã tràn xuống Nam Hỏa. Cuộc chiến Sơn tinh Thủy tinh còn là cuộc đối đầu văn hoá giữa 2 con số 9 sơn Lão dương với con số 6 Thủy Lão âm. Đây là 1 trong nhiều vấn đề triết học được các nhà Nho diễn hệt chuyện Người. 2 cuốn Nam hoa kinh của Trang Tử, Lĩnh Nam chích quái và có thể là Tam quốc diễn (nghĩa?), Tây du ký… là ví dụ. Bạn đọc xem hình 8A.
Lịch
H | B | T | N | S | B | C |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | ||||||
2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 |
23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 |
30 | 31 |